Bản án 05/2021/HS-ST ngày 12/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG – THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 05/2021/HS-ST NGÀY 12/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 156/2020/TLST-HS ngày 16 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 170/2020/QĐXXST-HS ngày 30/12/2020 đối với bị cáo:

Phan Ngọc P, sinh năm 1992 tại N; Nơi cư trú: Khu phố 3, phường Ph, TP. Ph1, tỉnh N; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn 7/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phan Ngọc A1 (đã chết) và bà Đào Thị D, sinh năm 1954; Vợ: Phạm Thị Xuân Ng và 02 con, lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2015.

Tiền sự: không; Tiền án:

- Ngày 16/8/2012, Phan Ngọc P bị Tòa án nhân dân TP. Ph xử phạt 10 tháng tù về tội trộm cắp tài sản.

- Ngày 13/9/2016, Phan Ngọc P bị Tòa án nhân dân TP. Ph xử phạt 36 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản với tình tiết tăng nặng là tái phạm.

- Ngày 28/9/2016, Phan Ngọc P bị Tòa án nhân dân TP. Ph xử phạt 07 tháng tù về tội Tổ chức đánh bạc với tình tiết tăng nặng là tái phạm.

Nhân thân:

- 16/4/2008, Phan Ngọc P bị UBND thành phố Phan Rang - Tháp Chàm đưa vào Cơ sở giáo dục 24 tháng.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 08/9/2020, tạm giam từ ngày 11/9/2020, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an TP.Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận (có mặt).

Bị hại: Nguyễn Hàn Gia H, sinh năm 1994 Nơi cư trú: khu phố 4, phường Đ, TP. Ph, tỉnh N (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 27/8/2020, Phan Ngọc P uống cà phê tại quán cóc trước Cung thiếu nhi thuộc phường P, thành phố Ph cùng với người tên T1 (không rõ nhân thân, lai lịch) và được T1 rủ đi trộm cắp tài sản để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân thì P đồng ý. Sau đó, P điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Wave màu trắng BKS 85B1 – 063.19 của T, chở T ngồi phía sau đi tìm tài sản sơ hở để trộm cắp. Đến khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày, cả hai đến khu vực bãi biển Bình Sơn phía trước nhà hàng Vi Hồng thuộc khu phố 6, phường M, thành phố Ph thì phát hiện xe mô tô nhãn hiệu Wave, màu đen bạc BKS 85B1 -779.34 của anh Nguyễn Hàn Gia Huy (sinh năm 1994, trú tại Khu phố 4, phường Đ, TP. Ph) đang dựng tại khu vực tắm nước ngọt, không ai trông coi. P dừng xe lại, đứng cách chiếc xe mô tô của anh H khoảng 5m để cảnh giới, còn T1 đi tới gần chiếc xe, khởi động máy và điều khiển xe chạy đi tìm nơi tiêu thụ. T1 nói với P chạy xe của T1 về Cung thiếu nhi để chờ T1. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, T1 đến gặp P nói là đã bán được xe với giá 4.000.000 đ (bốn triệu đồng) và chia cho P 1.000.000 đồng (một triệu đồng), P nhận tiền và tiêu xài cá nhân hết.

Ngày 08/9/2020, P đã đến Cơ quan Cảnh sát điều tra TP. Phan Rang - Tháp Chàm tự thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của P phù hợp với những tài liệu chứng cứ mà Cơ quan điều tra thu thập được.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung vụ án đã nêu.

Tại Bản kết luận định giá tài sản (đối với tài sản bị thất lạc hoặc không còn) số 92/BKLĐG ngày 10/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự TP. Phan Rang – Tháp Chàm kết luận: 01 (một) xe mô tô hiệu Wave, màu đen bạc, BKS 85B1 – 779.34, không thu hồi được, có giá trị thực tại thời điểm bị trộm cắp là 16.650.000 đồng (mười sáu triệu sáu trăm năm mười nghìn đồng).

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không có ý kiến, hay khiếu nại gì về kết luận của Hội đồng định giá nêu trên.

Bản cáo trạng số 148/CT-VKSPRTC ngày 12/11/2020 của Viện kiểm sát TP. Phan Rang – Tháp Chàm, truy tố bị cáo Phan Ngọc P về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm đại diện Viện kiểm sát nhân TP. Phan Rang – Tháp Chàm giữ nguyên quyết định truy tố: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phan Ngọc P phạm tội “Trộm cắp tài sản”; áp dụng: điểm g khoản 2 Điều 173; điểm r, s khoản 1 Điều 51, Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Phan Ngọc P từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

Bị cáo không tranh luận, lời nói sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi sai trái của mình, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an TP. Phan Rang – Tháp Chàm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân TP. Phan Rang – Tháp Chàm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và đại diện hợp pháp của người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, biên bản khám nghiệm hiện trường và các tài liệu, chứng cứ được thu thập trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 27/8/2020, tại khu vực bãi biển Bình Sơn phía trước nhà hàng Vi Hồng thuộc khu phố 6, phường M, TP.Ph, lợi dụng sơ hở của anh Nguyễn Hàn Gia H trong việc quản lý tài sản, Phan Ngọc P cùng một người tên T1 (không rõ nhân thân lai lịch) đã lén lút trộm cắp của anh H một chiếc xe mô tô nhãn hiệu Wave, màu đen bạc BKS 85B1 – 779.34 đang dựng tại khu vực tắm nước ngọt, không ai trông coi. Trị giá chiếc xe mô tô bị chiếm đoạt được định giá là 16.650.000 đồng ( mười sáu triệu sáu trăm năm mươi ngàn đồng). Phan Ngọc P chấp hành xong hình phạt 03 năm 07 tháng tù vào ngày 27/02/2019, với tình tiết tăng nặng là tái phạm. Ngày 27/8/2020, Phúc chưa được xóa án tích nhưng lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên lần phạm tội này xác định là tái phạm nguy hiểm. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân TP. Phan Rang – Tháp Chàm truy tố bị cáo Phan Ngọc P về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là trái pháp luật nhưng do bản chất lười lao động, không làm nhưng vẫn muốn có tiền tiêu xài nên bị cáo đã cố ý thực hiện tội phạm. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu của công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ quá trình điều tra cũng như tại phiên sơ thẩm bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, bị cáo đã tự thú trình báo với cơ quan công an về hành vi phạm tội nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, điểm r khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuy bị cáo Phan Ngọc P có 02 tình tiết giảm nhẹ thuộc khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nhưng do tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, bị cáo đã nhiều lần bị xét xử về hành vi trộm cắp nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân, nay lại tiếp tục phạm tội nên Hội đồng xét xử không áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự để xem xét quyết định hình phạt đối với bị cáo.

Về nhân thân, bị cáo Phan Ngọc P có nhân thân xấu, nhiều lần vi phạm pháp luật hình sự bị đưa ra xét xử về nhiều tội danh với nhiều bản án và 01 lần bị đưa vào cơ sở giáo dục 24 tháng về hành vi trộm cắp và đánh nhau nhưng bị cáo không ăn năn hối cải và rèn luyện để trở thành công dân tốt. Nay lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự thuộc loại tội phạm nghiêm trọng nên cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[6] Về xử lý vật chứng: 01 xe mô tô hiệu Wave màu đen bạc, BKS 85B1- 779.34 do anh Nguyễn Hàn Gia H làm chủ sở hữu, Cơ quan điều tra không thu hồi được nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, anh Nguyễn Hàn Gia H yêu cầu Phan Ngọc P bồi thường số tiền 16.650.000 đồng, P đồng ý nhưng chưa thực hiện bồi thường. Hội đồng xét xử công nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo và bị hại, buộc bị cáo Phan Ngọc P phải bồi thường cho bị hại Nguyễn Hàn Gia H 16.650.000 đồng.

[8] Đối với người tên T1 đã cùng P trộm cắp tài sản, quá trình điều tra, Cơ quan điều tra chưa xác minh được nhân thân, lai lịch. Chiếc xe mô tô hiệu Wave màu trắng BKS 85B1 – 063.19 của T1 mang biển số giả nên không tra cứu được thông tin. Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục xác minh, làm rõ để xử lý sau nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Đối với án phí dân sự sơ thẩm, do bị cáo và bị hại thỏa thuận được với nhau về việc bồi thường thiệt hại trước khi mở phiên tòa nên căn cứ điểm f Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVUQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Phan Ngọc P được miễn án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, sự.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s, r khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình Tuyên bố: Bị cáo Phan Ngọc P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Phan Ngọc P 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 08/9/2020.

Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 584, Điều 586, Điều 589, Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự.

Công nhận sự thỏa thuận bồi thường thiệt hại giữa bị cáo Phan Ngọc P và bị hại Nguyễn Hàn Gia H. Bị cáo Phan Ngọc P phải bồi thường cho bị hại Nguyễn Hàn Gia H 16.650.000 đồng.

Kể từ ngày bản án, quyết định đã có hiệu lực (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự 2015.

Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Điều 23 và Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Phan Ngọc P phải chịu: 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo Phan Ngọc P không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được Thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận Thi hành án, quyền yêu cầu Thi hành án, tự nguyện Thi hành án hoặc bị cưỡng chế Thi hành án theo quy định các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo, bị hại có mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 12/01/2021./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2021/HS-ST ngày 12/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:05/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về