Bản án 05/2021/HS-PT ngày 29/01/2021 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU 

BẢN ÁN 05/2021/HS-PT NGÀY 29/01/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 29 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau, xét xử phúc thẩm C khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 151/2020/TLPT-HS ngày 08 tháng 12 năm 2020 đối với các bị cáo Nguyễn Chí C, Nguyễn Hoàng D; do có kháng cáo của các bị cáo và người bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 36/2020/HS-ST ngày 04/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.

- Các bị cáo có kháng cáo, bị kháng cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Chí C, sinh năm: 1994, tại tỉnh Cà Mau; nơi cư trú: Ấp H, xã N, huyện Đ, tỉnh C; nghề nghiệp: Làm vuông; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn Thượng và bà: Trần Thị Phượng; vợ: Đỗ Thị Uôl; con: 01 người; tiền án, tiền sự: Không. bị khởi tố, cấm đi khỏi nơi cư trú ngày 28/4/2020; bị cáo tại ngoại có mặt.

2. Họ và tên: Nguyễn Hoàng D, sinh năm: 1998, tại tỉnh Cà Mau; nơi cư trú: Ấp H, xã N, huyện Đ, tỉnh C; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn Thượng và bà: Trần Thị Phượng; vợ: Nguyễn Thị Diệu An; con: 02 người; tiền án, tiền sự: Không; bị khởi tố, cấm đi khỏi nơi cư trú ngày 28/9/2020; bị cáo tại ngoại có mặt.

- Bị hại: Nguyễn Hoàng S, sinh năm 1991; nơi cư trú: Ấp P, xã N, huyện Đ, tỉnh C. (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Chí C: Luật sư Lê Minh Châu, Văn phòng Luật sư Lê Minh Châu, Đoàn Luật sư tỉnh Cà Mau (có mặt).

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại: Luật sư Ngô Đình Chiến, Văn phòng Luật sư Ngô Đình Chiến, Đoàn Luật sư tỉnh Cà Mau (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Đỗ Thị Uôl, sinh năm 1991; nơi cư trú: Ấp H, xã N, huyện Đ, tỉnh C. (không liên quan kháng cáo, Tòa án không triệu tập).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và D biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 19 giờ ngày 25/02/2020, Nguyễn Văn Triều tổ chức uống rượu tại nhà thuộc ấp Phú Hiệp, xã Ngọc Chánh, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau với Nguyễn Hoàng D, Nguyễn Hoàng S, Nguyễn Thái Duy (Nhí). Trong tiệc rượu, S và D xảy ra mâu thuẫn. S nói ông Huôi không nhận D là con rể. D nói “nếu ông Huôi nhận thì S thua 5 thùng bia”. S nói “tao thua luôn miếng đất chứ 5 thùng bia gì”. D nói “anh nói vậy là anh nói bậy”. S cầm ly bia đập vỡ xuống nền gạch được Triều can ngăn. S và D ra về, S thách thức D kêu cả dòng họ lên đánh nhau.

D về nhà nói với anh ruột Nguyễn Chí C là S đánh D, đập ly bia, thách thức kêu dòng họ đến. Nghe vậy, C lấy 01 con dao phay và 01 dao tự chế (cán, lưỡi bằng kim loại) đưa D cầm. C điều khiển xe mô tô biển số 69F1-26195 chở D đi tìm S. Khi C chở D đến trước quán nước của Nguyễn Thúy Kiều cách nhà S khoảng 30m gặp chị Kiều, chị Nguyễn Tuyết Hạnh (vợ Triều), chị Nguyễn Thị Tú (vợ S) được chị Hạnh, chị Kiều can ngăn. Chị Kiều nắm cổ áo D kéo lại, C nói lớn tiếng, S từ nhà chạy đến quán của Kiều. C giật 02 con dao trên tay D (tay trái cầm dao tự chế, tay phải cầm dao phay) xông vào đánh, chém S nhiều cái, cả hai vật nhau cùng té xuống mé sông. S bị thương tích ở lưng, tay trái, tay phải, tai trái.

Lúc C và S vật nhau, D chạy đến nhặt con dao bằng kim loại do C chém S rớt lại trên lộ bê tông xông vào bị chị Kiều, anh Triều, ông Hên can ngăn, kéo lại và kéo C với anh S ra. Anh Triều giật cây dao trên tay D đang cầm quăng bỏ.

Sau đó, gia đình S báo C an xã Ngọc Chánh đến lập biên bản và đưa anh S đến Bệnh viện đa khoa huyện Đầm Dơi điều trị từ ngày 25/02/2020 đến ngày 02/3/2020 và chuyển đến Bệnh viện Chợ Rẫy khám bệnh vào ngày 03/3/2020. Ngày 26/2/2020, Nguyễn Hoàng S có đơn yêu cầu giám định pháp y và xử lý hình sự đối với C và D.

Theo Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 82/TgT ngày 31/3/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Cà Mau kết luận thương tích của S gồm: 01 vết sẹo sau tai trái; 01 vết sẹo 1/3 giữa mặt trước cánh tay phải; 01 vết sẹo 1/3 giữa mặt ngoài cánh tay trái; 01 vết sẹo cạnh cột sống lưng bên trái khoảng L4, L5. Đều do vật sắc hoặc sắc nhọn gây ra. Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể là 07% .

Quá trình điều tra bị cáo Nguyễn Chí C và gia đình đã bồi thường cho anh Nguyễn Hoàng S số tiền 10.000.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 36/2020/HS-ST ngày 04 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau quyết định:

- Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134, điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự; xử phạt: Nguyễn Chí C 04 tháng tù, về tội “Cố ý gây thương tích”;

thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

- Áp dụng khoản 6 Điều 134; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự; xử phạt: Nguyễn Hoàng D 04 tháng tù, cho hưởng án treo, về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời gian thử thách 01 năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Áp dụng các Điều 584, 585, 590 Bộ luật Dân sự; buộc Nguyễn Chí C bồi thường cho Nguyễn Hoàng S tổng số tiền 42.052.061 đồng. Đối trừ số tiền Đỗ Thị Uôl đã bồi thường 4.000.000 đồng và 6.000.000 đồng bị cáo C nộp bồi thường tại biên lai 0009878 ngày 03/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đầm Dơi. Số tiền còn lại bị cáo C phải bồi thường là 32.052.061 đồng.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng, án phí, nghĩa vụ chịu lãi suất chậm thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 16 tháng 11 năm 2020, bị hại Nguyễn Hoàng S có đơn kháng cáo yêu cầu tăng hình phạt đối với Nguyễn Chí C; không cho Nguyễn Hoàng D được hưởng án treo.

Ngày 18 tháng 11 năm 2020, các bị cáo có đơn kháng cáo. Trong đó, bị cáo Nguyễn Chí C kháng cáo toàn bộ vụ án, xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo. Ngày 11/01/2021, nộp bổ sung đơn yêu cầu xem xét lại các khoản tiền bồi thường. Bị cáo Nguyễn Hoàng D kháng cáo xác định nhặt dao vì sợ Triều nhặt dao chém C, không phải nhặt dao để chém S; án sơ thẩm chưa xem xét lỗi của S là chưa giải quyết toàn diện vụ án.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo và bị hại đều giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Bị cáo Nguyễn Chí C kháng cáo và Luật sư tranh luận yêu cầu giảm án và được hưởng án treo; yêu cầu xét lại các khoản tiền bồi thường bao gồm tiền ăn, tiền mất thu nhập 250.000đ/người/ngày và tiền tổn thất tinh thần 10 tháng lương là cao. Lý do, bị hại có một phần lỗi là gây sự thách thức đánh nhau trước nên phải cùng chịu một phần tiền bồi thường.

Bị cáo Nguyễn Hoàng D kháng cáo yêu cầu xem xét bị hại có một phần lỗi và xin được hưởng án treo như án sơ thẩm đã tuyên.

Bị hại Nguyễn Hoàng S và Luật sư tranh luận yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo C và không cho bị cáo D được hưởng án treo. Lý do các bị cáo thực hiện hành vi có tính côn đồ. D có gây thương tích cho bị hại ở lưng. D phạm tội ở khoản 1 chứ không phải khoản 6 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, bị hại; giữ nguyên Bản án sơ thẩm số: 36/2020/HS-ST ngày 04/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Khoảng 19 giờ ngày 25/02/2020, trong lúc uống rượu tại nhà Nguyễn Văn Triều thuộc ấp Phú Hiệp, xã Ngọc Chánh, huyện Đầm Dơi, Nguyễn Hoàng S và Nguyễn Hoàng D xảy ra cự cãi, S cầm ly bia đập vỡ xuống nền gạch, được Triều can ngăn, S và D ra về, tiếp tục thách thức nhau.

D về nhà nói với anh ruột Nguyễn Chí C là S đánh D và thách thức cả dòng họ lên đánh nhau. C lấy 01 con dao phay và 01 dao tự chế đưa D cầm và điều khiển xe mô tô biển số 69F1-26195 chở D đi tìm đánh S. Khi đến trước quán nước của Nguyễn Thúy Kiều cách nhà S khoảng 30m được Kiều, Nguyễn Tuyết Hạnh (vợ anh Triều), Nguyễn Thị Tú (vợ anh S) khuyên can. S từ nhà chạy sang, C giật 02 con dao trên tay D (tay trái cầm dao tự chế, tay phải cầm dao phay) xông vào đánh, chém S gây thương tích ở lưng, tay trái, tay phải, tai trái; tỷ lệ thương tật 07%. Lúc C và S câu vật nhau té xuống mé sông, D nhặt con dao do C chém S rớt lại trên lộ bê tông xông vào bị chị Kiều, anh Triều, ông Hên can ngăn. Triều giật cây dao trên tay D đang cầm quăng bỏ. C và S được mọi người kéo ra.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Chí C thừa nhận có đánh nhau với bị hại S, thương tích của S 07% là do C gây ra. Bị cáo D thừa nhận có nhặt dao nhưng không chém S do có người can ngăn. Bị hại S cho rằng D chém S gây ra vết thương ở lưng. Xét lời khai của các bị cáo phù hợp với các chứng cứ có tại hồ sơ gồm: lời khai của các bị cáo, của bị hại S, của những người làm chứng có mặt tại hiện trường như anh Triều, chị Kiều, chị Hạnh đều thể hiện: Sự việc xô xát xảy ra chỉ có C và S tham gia trực tiếp đánh nhau. D được mọi người can ngăn không tham gia đánh S. Do đó, không có cơ sở chấp nhận lời khai của bị hại S là D gây ra thương tích cho S ở lưng như bị hại khai. Cấp sơ thẩm xác định bị cáo C là người trực tiếp gây ra các thương tích cho bị hại là đúng.

[3] Xét hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm hại sức khỏe của bị hại Nguyễn Hoàng S một cách trái pháp luật nên đã vi phạm pháp luật hình sự. Trong đó, Bị cáo C là người chủ động lấy dao cùng D tìm đánh S. Bị cáo trực tiếp dùng dao chém S gây thương tích 07%. Tuy tỷ lệ thương tật không lớn, nhưng do bị cáo dùng hung khí nguy hiểm gây ra, người bị hại có yêu cầu xử lý hình sự, nên bị cáo là người chịu trách nhiệm chính, phải bị pháp luật xử lý nghiêm khắc. Án sơ thẩm xác định bị cáo phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ pháp luật, đúng với hành vi phạm tội của bị cáo.

Bị cáo D là người có mâu thuẫn với S từ đầu, chính bị cáo tìm C kể lại sự việc S gây sự, thách thức đánh nhau. Khi được C đưa dao, D đồng ý cầm dao theo C tìm đánh S. Thực tế, C đã dùng dao do D cầm theo chém gây thường tích cho S nên D phải cùng chịu trách nhiệm với vai trò đồng phạm với C. Mặt khác, D không trực tiếp đánh nhau và gây thương tích cho S còn là do D bị những người có mặt gồm chị Kiều, chị Hạnh, anh Triều can ngăn nắm kéo lại nên không tham gia đánh, chém được S. Án sơ thẩm xác định bị cáo phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 6 Điều 134 của Bộ luật Hình sự là chưa chính xác. Cần áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo D mới đúng với hành vi và vai trò đồng phạm của bị cáo trong vụ án.

[4] Xét kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo C và kháng cáo không có ý định chém S của bị cáo D cùng yêu cầu xem xét lỗi của bị hại trong vụ án nhận thấy:

Ngay từ đầu bị hại S có lời lẽ không hay và đập ly xuống gạch gây sự, thách thức đánh nhau với D. Đây là nguyên nhân dẫn đến việc D về nói lại cho C nghe và cùng C lấy dao tìm đánh nhau với S. Án sơ thẩm xác định S có lỗi gây sự với D là đúng. Riêng đối với C, khi nghe D nói lại sự việc S thách thức cả dòng họ đánh nhau, lẽ ra C phải can ngăn, bởi sự việc cãi nhau giữa D và S đã chấm dứt. Ngược lại, C lấy dao kêu D mang theo đi tìm đánh S. Khi gặp S, C chủ động xông vào đánh, chém gây thương tích cho S. Do đó, việc đánh nhau giữa C và S không có lỗi của S như các bị cáo và Luật sư nêu ra.

Hành vi phạm tội của các bị cáo thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, hậu quả thiệt hại xảy ra đối với bị hại không lớn, nhưng các bị cáo có sử dụng hung khí nguy hiểm là dao để gây thương tích cho bị hại thể hiện ý thức bất chấp pháp luật, xem thường tính mạng, sức khỏe người khác của các bị cáo. Khi áp dụng hình phạt, án sơ thẩm đã xem xét đầy đủ tính chất vụ án, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội của từng bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ đối với các bị cáo như nhân thân không tiền án, tiền sự; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo C có bồi thường khắc phục hậu quả cho bị hại, từ đó phạt bị cáo C 04 tháng tù; phạt bị cáo D 04 tháng tù nhưng cho hưởng án treo là tương xứng với vai trò phạm tội của các bị cáo.

[5] Xét kháng cáo của bị hại và Luật sư yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo C và không cho bị cáo D được hưởng án treo nhận thấy: Sự việc đánh nhau có nguyên nhân ban đầu là do S gây gỗ, thách thức D kêu cả dòng họ đến đánh nhau. Khi C và D mang dao tìm S được mọi người can ngăn tại quán nước chị Kiều cách nhà S khoảng 30m. S có hành vi chủ động chạy đến đánh nhau với các bị cáo. Do đó, cấp sơ thẩm không áp dụng tình tiết các bị cáo phạm tội có tính chất côn đồ là phù hợp. Đồng thời do các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, bị cáo C giữ vai trò chính nên bị phạt tù; bị cáo D vai trò đồng phạm thứ yếu được hưởng án treo là tương xứng nên không có cơ sở tăng án theo kháng cáo của bị hại.

[6] Xét kháng cáo của bị cáo C và Luật sư yêu cầu xét lại trách nhiệm bồi thường và số tiền bồi thường thấy rằng: Thương tích của bị hại S do bị cáo C gây ra là thực tế. Việc bị hại bị thiệt hại sức khỏe là do hành vi phạm tội của bị cáo C gây ra. Án sơ thẩm căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ thể hiện thời gian điều trị, số tiền điều trị và căn cứ vào quy định của pháp luật dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm hại để buộc bị cáo C bồi thường cho bị hại các khoản tiền điều trị, tiền ăn, tiền mất thu nhập, tiền dưỡng bệnh, tiền tổn thất tinh thần trên cơ sở chứng từ toa vé hợp lệ, sự tự thỏa thuận của bị cáo, mức thu nhập bình quân của người lao động phổ thông tại địa phương 250.000đ/người/ngày là phù hợp. Nên không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của bị cáo để xét lại phần bồi thường.

[7] Từ nhận định trên, xét thấy không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của các bị cáo cũng như kháng cáo của bị hại. Cần giữ nguyên quyết định của án sơ thẩm số: 36/2020/HS-ST ngày 04 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi đã xử đối với các bị cáo, nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật vừa răn đe, nghiêm trị vừa giáo dục, phòng ngừa chung.

[8] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[9] Do kháng cáo không được chấp nhận nên các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định. Bị hại không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Chí C, Nguyễn Hoàng D và bị hại Nguyễn Hoàng S; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 36/2020/HS- ST ngày 04 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134, điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự; xử phạt Nguyễn Chí C 04 (bốn) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 65 của Bộ luật Hình sự; xử phạt Nguyễn Hoàng D 04 (bốn) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Cố ý gây thương tích”; thời gian thử thách 01 (một) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 04/11/2020.

Giao bị cáo Nguyễn Hoàng D cho Ủy ban nhân dân xã Ngọc Chánh, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Áp dụng các Điều 584, 585, 590 Bộ luật Dân sự; Buộc Nguyễn Chí C bồi thường cho Nguyễn Hoàng S tổng số tiền 42.052.061 đồng. Đối trừ số tiền Đỗ Thị Uôl đã bồi thường 4.000.000 đồng và 6.000.000 đồng bị cáo C nộp bồi thường tại biên lai 0009878 ngày 03/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đầm Dơi (bị hại S có quyền được nhận). Số tiền còn lại bị cáo C phải bồi thường tiếp là 32.052.061 đồng (ba mươi hai triệu không trăm năm mươi hai nghìn không trăm sáu mươi mốt đồng).

2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Nguyễn Chí C và Nguyễn Hoàng D, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm. Bị hại Nguyễn Hoàng S không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

326
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2021/HS-PT ngày 29/01/2021 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:05/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:29/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về