Bản án 05/2021/HS-PT ngày 01/02/2021 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 05/2021/HS-PT NGÀY 01/02/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 01 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 135/2020/TLPT-HS ngày 18 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo Chu Văn K cùng đồng phạm do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 87/2020/HS-ST ngày 12 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn.

- Bị cáo có kháng cáo:

1. Chu Văn K, sinh ngày 19 tháng 8 năm 1976 tại huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Tổ 6, khối 9, thị trấn C, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 03/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Chu Văn A và bà Bùi Thị H; có vợ Nguyễn Thị X và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26-6-2020 đến ngày 27-7-2020 được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn Bảo lĩnh đến nay; có mặt.

2. Giang Văn T, sinh ngày 04 tháng 11 năm 1965 tại huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn P, xã H, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 10/10; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Giang Văn S và bà Sầm Thị S; có vợ Lương Thị T và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Đã bị kết án, đã bị xử lý hành chính. Tại Bản án số 26/HS-ST ngày 23 tháng 5 năm 1992 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xử phạt 05 năm tù về tội Cố ý gây thương tích. Ngày 10 tháng 11 năm 1998 bị Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 200.000 đồng về hành vi Cố ý gây thương tích; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26-6-2020 đến ngày 20-7- 2020 được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn Bảo lĩnh đến nay; có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Chu Văn K: Bà Lê Thị L, Luật sư Văn phòng luật sư T thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có 05 bị cáo khác không có kháng cáo, không bị kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 25 tháng 6 năm 2020, Chu Văn K, Lương Văn X và Dương Văn C cùng nhau ngồi uống nước tại quán nước ở thị trấn C, huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Trong lúc ngồi uống nước, Chu Văn K rủ đánh bạc thì Lương Văn X, Dương Văn C đồng ý và chọn địa điểm tại nhà nghỉ V, thuộc tổ 1, khối 4, thị trấn C, huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Sau đó, Chu Văn K, Lương Văn X và Dương Văn C đi bộ đến nhà nghỉ V. Tại nhà nghỉ V, Chu Văn K hỏi chị Phạm Thị L là nhân viên lễ tân để thuê phòng. Sau khi kiểm tra các phòng còn trống, chị Phạm Thị L đưa chìa khóa phòng 302 cho Chu Văn K, Chu Văn K đưa giấy chứng minh nhân dân mang tên Chu Văn K cho chị Phạm Thị L giữ và đưa cho chị Phạm Thị L 340.000 đồng để trả tiền thuê phòng. Chu Văn K, Lương Văn X cùng nhau lên phòng 302 của nhà nghỉ V. Chu Văn K gọi điện thoại rủ Chu Quốc V tham gia đánh bạc và bảo Chu Quốc V khi đi thì mua bộ bài tú lơ khơ để phục vụ việc đánh bạc, Chu Quốc V đồng ý. Chu Quốc V gọi điện thoại rủ Vy Văn C đi đánh bạc, Vy Văn C đồng ý. Chu Quốc V điều khiển xe mô tô từ nhà đi qua nhà Vy Văn C đón Vy Văn C và khi đang trên đường đến nhà nghỉ V thì Chu Quốc V dừng xe, Chu Quốc V đi vào cửa hàng tạp hóa mua 02 (hai) bộ bài tú lơ khơ rồi điều khiển xe mô tô chở Vy Văn C đến nhà nghỉ V. Khi đến nhà nghỉ V, Chu Quốc V và Vy Văn C đi thẳng lên phòng 302. Tại phòng 302, Chu Văn K, Lương Văn X, Chu Quốc V, Dương Văn C và Vy Văn C cùng nhau kê ghép 02 (hai) giường đơn lại với nhau, mang bộ bài tú lơ khơ ra và cùng nhau đánh bạc được thua bằng tiền với hình thức chơi "Liêng".

Khi đang chơi, đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày thì Chu Quốc V gọi điện thoại rủ Giang Văn T cùng tham gia đánh bạc, Giang Văn T đồng ý. Khi nghe điện thoại của Chu Quốc V, Giang Văn T đang ngồi uống nước tại nhà của Hà Văn D, Giang Văn T rủ Hà Văn D cùng đi đánh bạc thì Hà Văn D đồng ý.Giang Văn T điều khiển xe mô tô chở Hà Văn D đến nhà nghỉ V. Khi đến nhà nghỉ V, Giang Văn T gọi điện thoại cho Chu Quốc V, Chu Quốc V bảo Giang Văn T lên phòng 302. Giang Văn T và Hà Văn D cùng lên phòng 302 và vào phòng cùng tham gia đánh bạc với Chu Văn K, Lương Văn X, Chu Quốc V, Vy Văn C. Đến khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày thì bị lực lượng chức năng phát hiện bắt quả tang.

Quá trình điều tra đã xác định Chu Văn K, Chu Quốc V, Lương Văn X, Giang Văn T, Hà Văn D, Vy Văn C và Dương Văn C sử dụng tổng số tiền 19.120.000 đồng (mười chín triệu một trăm hai mươi nghìn đồng) để đánh bạc.

Tại Bản án số: 87/2020/HS-ST ngày 12-11-2020 của Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn đã quyết định: Căn cứ khoản 1 Điều 321; các điểm i, s khoản 1 Điều 51; các Điều 38, 50, 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Chu Văn K; căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; các Điều 38, 50, 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Giang Văn T; xử phạt bị cáo Chu Văn K 10 tháng tù về tội Đánh bạc; xử phạt bị cáo Giang Văn T 07 tháng tù về tội Đánh bạc (được trừ đi thời gian tạm giữ, tạm giam. Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với các bị cáo khác, hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của các bị cáo theo quy định của pháp luật.

Trong hạn luật định, các bị cáo Chu Văn K, Giang Văn T kháng cáo xin hưởng án treo.

Tại phiên toà phúc thẩm, các bị cáo bổ sung thêm nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh: Đơn kháng cáo của các bị cáo làm trong hạn luật định nên là hợp lệ. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo Chu Văn K, Giang Văn T về tội Đánh bạc là đúng người, đúng tội, không oan. Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng về nhân thân, tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo. Tại cấp phúc thẩm bị cáo Giang Văn T không cung cấp được thêm tài liệu, chứng cứ mới là tình tiết giảm nhẹ theo quy định của pháp luật để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, xử giữ nguyên nội dung Bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo. Bị cáo Chu Văn K cung cấp Huân chương kháng chiến hạng Ba của ông Chu Văn A (là bố đẻ của bị cáo). Tuy nhiên trong vụ án này, bị cáo Chu Văn K là có vai trò chính, là người khởi xướng, rủ rê các bị cáo khác đánh bạc, do đó chỉ chấp nhận một phần kháng cáo giảm mức hình phạt cho bị cáo, không chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo Chu Văn K; xử phạt bị cáo Chu Văn K 09 tháng tù.

Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo Chu Văn K: Bị cáo có nhân thân tốt, có bố đẻ là ông Chu Văn A được tặng Huân chương kháng chiến hạng Ba; đây là tình tiết mới chưa được cấp sơ thẩm xem xét. Đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt mức án từ 07 đến 08 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như nội dung của Bản án sơ thẩm. Do đó, có căn cứ để xác định: Ngày 25-6-2020, tại phòng 302 của nhà nghỉ V, địa chỉ tổ 1, khối 4, thị trấn C, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, các bị cáo Chu Văn K, Chu Quốc V, Lương Văn X, Giang Văn T, Hà Văn D, Vy Văn C và Dương Văn C đã thực hiện hành vi đánh bạc với tổng số tiền 19.120.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt các bị cáo Chu Văn K, Giang Văn T về tội Đánh bạc là đúng người, đúng tội, không oan.

[2] Xét kháng cáo của các bị cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng: Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng về nhân thân, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo, mức hình phạt áp dụng đối với các bị cáo là phù hợp.

[3] Đối với bị cáo Chu Văn K kháng cáo về việc xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo: Thấy rằng, trong vụ án này, bị cáo Chu Văn K giữ vai trò chính là người khởi xướng việc đánh bạc, thuê phòng, trả tiền thuê phòng nhà nghỉ, rủ các bị cáo Lương Văn X, Dương Văn C, Chu Quốc V tham gia đánh bạc và dùng số tiền 4.500.000 đồng để đánh bạc. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo xuất trình được thêm Huân chương kháng chiến hạng Ba của ông Chu Văn A là bố đẻ của bị cáo. Đây là tình tiết mới bị cáo được hưởng theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Để đảm bảo công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, không chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo nhưng cần xem xét chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo vì có tình tiết giảm nhẹ mới. Tuy nhiên, cần xem xét đến vai trò đồng phạm trong vụ án, xử phạt bị cáo mức án không thấp hơn mức án của các bị cáo khác trong vụ án.

[4] Đối với bị cáo Giang Văn T kháng cáo về việc xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo: Thấy rằng, trong vụ án này, bị cáo Giang Văn T có vai trò tích cực trong vụ án, tham gia đánh bạc từ khi bắt đầu đến khi bị bắt. Bị cáo đã bị kết án và được xóa án tích, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo Giang Văn T sử dụng số tiền 1.200.000 đồng để đánh bạc. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo không xuất trình được thêm tài liệu, chứng cứ mới là tình tiết giảm nhẹ theo quy định của pháp luật để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Do đó, cần giữ nguyên nội dung của Bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo.

[5] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn tại phiên tòa phù hợp với nhận định nêu trên nên được chấp nhận.

[6] Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo Chu Văn K không phù hợp với nhận định nêu trên nên không được chấp nhận.

[7] Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo Chu Văn K không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, điểm h khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Giang Văn T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, điểm b khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

[8] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Căn cứ vào khoản 1, khoản 3 Điều 321; các điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; các Điều 38, 50, 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án đối với bị cáo Chu Văn K.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Căn cứ vào khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; các Điều 38, 50, 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015; căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án đối với bị cáo Giang Văn T.

1. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Chu Văn K về phần hình phạt, sửa một phần nội dung Bản án hình sự sơ thẩm số 87/2020/HS-ST ngày 12-11- 2020 của Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn về phần hình phạt đối với bị cáo, cụ thể:

Xử phạt bị cáo Chu Văn K 09 (chín) tháng tù về tội Đánh bạc. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị đi thi hành án, được trừ thời gian bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26 tháng 6 năm 2020 đến ngày 27 tháng 7 năm 2020.

2. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Giang Văn T về phần hình phạt, giữ nguyên nội dung Bản án hình sự sơ thẩm số 87/2020/HS-ST ngày 12-11- 2020 của Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn về phần hình phạt đối với bị cáo, cụ thể:

Xử phạt bị cáo Giang Văn T 07 (bẩy) tháng tù về tội Đánh bạc. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị đi thi hành án, được trừ thời gian bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26 tháng 6 năm 2020 đến ngày 20 tháng 7 năm 2020.

3. Về án phí: Bị cáo Chu Văn K không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm; bị cáo Giang Văn T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

4. Về hiệu lực pháp luật: Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

279
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 05/2021/HS-PT ngày 01/02/2021 về tội đánh bạc

Số hiệu:05/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về