TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HẠ HÒA, TỈNH PHÚ THỌ
BẢN ÁN 05/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 29 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 306/2020/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 58/2020/QĐXX-ST ngày 15 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Phạm Ngọc P, sinh năm 1997; địa chỉ: Khu 14, xã Y, huyện H, tỉnh Phú Thọ. Có mặt.
2. Bị đơn: Anh Vũ Trọng H, sinh năm 1991, địa chỉ: Khu 14, xã Y, huyện H, tỉnh Phú Thọ. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 01 tháng 10 năm 2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Phạm Ngọc P trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh H có tìm hiểu và đăng ký kết hôn ngày 17/4/2014, tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh Phú Thọ. Sau kết hôn chị về chung sống với bố mẹ chồng, đến năm 2016 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do anh H hay ghen tuông, thường xuyên đánh chửi chị. Chị đã về nhà mẹ đẻ ở từ tháng 7/2020 đến nay và vợ chồng đã chấm dứt mọi quan hệ. Nay chị xin được ly hôn với anh H.
Về con chung: Có 02 con chung là Vũ Phạm Bảo T, sinh ngày 26/01/2014 và Vũ Linh A, sinh ngày 10/5/2017. Nếu ly hôn, chị xin được trực tiếp nuôi 02 con chung và yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.
Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ, công sức: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nếu sau này không tự giải quyết được thì chị sẽ yêu cầu Tòa án giải quyết trong một vụ, việc khác.
Bị đơn là anh Vũ Trọng H đã đến Tòa án nhân dân huyện Hạ Hòa vào ngày 26/10/2020 nhưng anh H không làm bản tự khai, không đồng ý để Tòa án ghi lời khai. Tòa án đã lập Biên bản về việc đương sự không làm việc tại Tòa án vào ngày 26/10/2020, trong đó còn có nội dung anh H nói vợ làm đơn xin ly hôn thì vợ trình bày, muốn thế nào cũng được, còn anh không khai gì, sau đó anh H tự bỏ về. Quá trình giải quyết tiếp theo, Tòa án nhân dân huyện Hạ Hòa đã triệu tập, niêm yết hợp lệ nhiều lần đối với anh H nhưng anh H vẫn vắng mặt nên không có lời khai.
Ủy ban nhân dân xã Y và Hội phụ nữ xã Y đều thống nhất có ý kiến: Chị P và anh H có mâu thuẫn, nhiều lần đánh chửi nhau, chị P đã về nhà mẹ đẻ để ở nên vợ chồng không có khả năng đoàn tụ. Đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn theo quy định của pháp luật. Chị P đang có chỗ ở ổn định, có thu nhập ổn định đủ điều kiện để nuôi con chung. Anh H đi làm tự do, địa phương không biết cụ thể anh H đi làm ăn ở đâu.
Ý kiến của Viện kiểm sát:
Về tố tụng: Vụ án thụ lý đúng quy định của pháp luật. Trong quá trình giải quyết vụ án, những người tiến hành tố tụng tuân thủ đúng các quy định của pháp luật tố tụng. Nguyên đơn chấp hành đúng quy định của pháp luật. Bị đơn đã được triệu tập, niêm yết hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.
Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phạm Ngọc P được ly hôn với anh Vũ Trọng H.
Về con chung: Xử giao cho chị P trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung là Vũ Phạm Bảo T, sinh ngày 26/01/2014 và Vũ Linh A, sinh ngày 10/5/2017. Buộc anh H phải cấp dưỡng cho mỗi con chung là 745.000 đồng / tháng. Phương thức cấp dưỡng hàng tháng. Anh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai được cản trở.
Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ, công sức: Không yêu cầu tòa án giải quyết.
Về án phí: Chị P phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm. Anh H phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con chung.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: Phiên tòa lần thứ nhất ngày 30/12/2020, bị đơn là anh Vũ Trọng H đã được triệu tập hợp lệ, nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự để hoãn phiên tòa.
Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn là anh Vũ Trọng H đã được tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là anh Vũ Trọng H.
[2]Về quan hệ hôn nhân giữa chị P và anh H được xác lập và có đăng ký kết hôn theo đúng quy định của pháp luật là quan hệ hôn nhân hợp pháp.
Trong quá trình chung sống ban đầu hòa thuận nhưng sau đó có mâu thuẫn phát sinh do vợ chồng không tin tưởng lẫn nhau, bất đồng ý kiến trong cuộc sống dẫn đến đánh chửi nhau.
Vợ chồng không còn thực hiện nghĩa vụ thương yêu, chung sống với nhau, không còn quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau trong cuộc sống, không cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Xét thấy tình trạng hôn nhân ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài mục đích của hôn nhân không đạt được, nếu kéo dài thì không có lợi cho cả hai bên, chị P cương quyết xin ly hôn với anh H vì tình cảm không còn, anh H bỏ mặc và không có biện pháp gì để chị P về đoàn tụ với anh.
Do vậy Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu và xử cho chị P được ly hôn với anh H.
[3]Về con chung: Anh H hiện nay không có mặt tại địa phương nên giao cho chị P trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung.
Chị P yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật. Vì vậy buộc anh H phải cấp dưỡng cho mỗi con chung là 745.000 đồng / tháng. Phương thức cấp dưỡng hàng tháng.
[4] Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ, công sức: Không yêu cầu tòa án giải quyết nên không giải quyết. Nếu có yêu cầu sẽ được xem xét trong một vụ, việc khác.
[5]Về án phí : Chị P phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Chị P tự nguyện nộp thay cho anh H án phí cấp dưỡng nuôi con nên anh H không phải đóng góp cấp dưỡng nuôi con.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, 81, 82, 83, 110, 116, 117 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH của Ủy ban thường vụ quốc hội ngày 30/12/2016.
Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phạm Ngọc P được ly hôn với anh Vũ Trọng H.
Về con chung: Xử giao cho chị P trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung là Vũ Phạm Bảo T, sinh ngày 26/01/2014 và Vũ Linh A, sinh ngày 10/5/2017. Buộc anh H phải cấp dưỡng cho mỗi con chung là 745.000 đồng / tháng kể từ khi ly hôn cho đến khi con chung thành niên và có khả năng lao động tự túc được. Phương thức cấp dưỡng hàng tháng. Anh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai được cản trở.
Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ, công sức: Không yêu cầu tòa án giải quyết.
Về án phí: Chị P phải chịu án phí 300.000 đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm. Anh H phải chịu 300.000 đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí cấp dưỡng nuôi con. Xác nhận chị P đã nộp số tiền tạm ứng án phí là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0002465 ngày 19/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hạ Hòa.
Đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết để đề nghị toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
Bản án 05/2021/HNGĐ-ST ngày 29/01/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình
Số hiệu: | 05/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hạ Hoà - Phú Thọ |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về