Bản án 05/2021/HNGĐ-ST ngày 08/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN D, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 05/2021/HNGĐ-ST NGÀY 08/02/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 08 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Bình Dương tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 439/2020/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 10 năm 2020 về việc “ly hôn; tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 08 tháng 01 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 02/2021/QĐST-HNGĐ ngày 21 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Hiệp H, sinh năm 1969. Địa chỉ: Ấp D, xã Đ, huyện D, tỉnh Bình Dương.

- Bị đơn: Bà Nguyễn Liễu Phương T, sinh năm 1986. Địa chỉ: Số 88/21/11, tổ 4, đường T, khu phố 2, thị trấn D, huyện D, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn có mặt. Bị đơn vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn ngày 04/9/2020, bản tự khai ngày 04/9/2020, biên bản không tiến hành H giải được ngày 08/01/2021, nguyên đơn trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông H và bà T sống chung với nhau từ năm 2016, hôn nhân tự nguyện, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện D, tỉnh Bình Dương vào ngày 16/4/2018 theo giấy chứng nhận kết hôn số 21, quyển số 01/2018. Lý do xin ly hôn: Quá trình chung sống vợ chồng không có hạnh phúc, càng ngày càng xảy ra nhiều mâu thuẫn, đời sống hôn nhân trở nên ngột ngạt, không còn quan tâm, yêu thương nhau, vì vậy vợ chồng không còn sống chung từ tháng 10/2020 cho đến nay. Từ khi không còn sống chung hai người không có sự quan tâm, chăm sóc nhau. Tình trạng hôn nhân không có hạnh phúc, không còn tình cảm nên tôi muốn ly hôn để không làm khổ cho cả hai người.

Về con chung: Trong thời gian chung sống vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Thành Đ, sinh ngày 13/7/2017; ông H yêu cầu bà T trực tiếp nuôi dưỡng con chung, ông H tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung, nợ chung: Không tranh chấp nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra, nguyên đơn không có yêu cầu gì khác.

Đối với bị đơn:

Trong quá trình thụ lý, thu thập chứng cứ để giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng và các tài liệu, chứng cứ theo quy định pháp luật để báo cho bị đơn biết để thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình nhưng bị đơn vẫn vắng mặt không có lý do.

- Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát phát biểu quan điểm:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự tại các Điều 26, 35, 39 về thẩm quyền thụ lý vụ án; Điều 68 về xác định tư cách tham gia tố tụng; các Điều 93 đến 97 về việc xác minh, thu thập chứng cứ, giao nhận chứng cứ; Điều 195, 196 về trình tự thụ lý, giao nhận thông báo thụ lý; Điều 203 về thời hạn chuẩn bị xét xử. Nguyên đơn đã tuân thủ đúng quy định tại Điều 70 và 71 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ quy định tại Điều 70 và 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Các tài liệu, chứng cứ được Hội đồng xét xử làm rõ tại phiên tòa cho thấy: Tình trạng hôn nhân của nguyên đơn và bị đơn đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 8, 9, 19, 56, 69, 71, 72, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết ly hôn, tranh chấp về nuôi con là vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Theo biên bản xác minh ngày 31/12/2020, bị đơn bà Nguyễn Liễu Phương T có đăng ký hộ khẩu thường trú tại tổ 4, đường T, khu phố 2, thị trấn D, huyện D, tỉnh Bình Dương và hiện đang ở cùng nhà với mẹ ruột tên Liễu Thị Hoa T1, sinh năm 1958; theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Bình Dương.

Việc Tòa án tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng và các tài liệu, chứng cứ cho bị đơn thông qua bà T1 là đúng với quy định tại Khoản 5 Điều 177 Bộ luật Tố tụng dân sự. Do bị đơn vắng mặt lần thứ hai không có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại điểm b Khoản 2 Điều 227 và Khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

2.1. Về quan hệ hôn nhân: Nguyên đơn và bị đơn tự nguyện sống chung với nhau từ năm 2016, hôn nhân tự nguyện, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện D, tỉnh Bình Dương vào ngày 16/4/2018 theo giấy chứng nhận kết hôn số 21, quyển số 01/2018. Như vậy, quan hệ hôn nhân của nguyên đơn và bị đơn là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Theo biên bản xác minh ngày 31/12/2020 được biết: Sau khi kết hôn thì nguyên đơn và bị đơn về sống chung với nhau tại ấp D, xã Đ, huyện D, tỉnh Bình Dương. Quá trình chung sống hai bên xảy ra nhiều mâu thuẫn trầm trọng nên không sống chung từ tháng 09/2020 cho đến nay, bà T và con tên Nguyễn Thành Đ về ở chung với gia đình mẹ ruột bà T1 ở khu phố 2, thị trấn D, huyện D, tỉnh Bình Dương. Từ khi không sống chung ông H không tới chăm sóc, thăm nom con chung.

Quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Toà án đã triệu tập các bên đương sự để H giải hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng bị đơn không chấp hành giấy triệu tập của Tòa án nên vụ án không tiến hành H giải được. Điều này cho thấy bị đơn không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng với nguyên đơn, nguyên đơn cũng kiên quyết xin ly hôn. Từ lời khai của nguyên đơn, sự không thiện chí của bị đơn và kết quả xác minh cho thấy bị đơn biết nguyên đơn nộp đơn xin ly hôn, đồng ý ly hôn nhưng không có thời gian lên Tòa án giải quyết. Như vậy, mâu thuẫn vợ chồng đã trở nên trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn là phù hợp với quy định tại Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, do vậy được Hội đồng xét xử chấp nhận.

2.2. Về con chung: Trong thời gian chung sống ông H, bà T có 01 con chung tên Nguyễn Thành Đ, sinh ngày 13/7/2017.

Hiện nay con chung tên Nguyễn Thành Đ đang do bị đơn và mẹ ruột của bị đơn trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Mặc dù bị đơn vắng mặt tại phiên tòa nhưng theo biên bản xác minh ngày 31/12/2020 thì bị đơn yêu cầu được nuôi con và đồng ý với mức cấp dưỡng 1.000.000 đồng/tháng. Vì vậy cần tiếp tục giao con chung tên Nguyễn Thành Đ, sinh ngày 13/7/2017 cho bị đơn trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng để đảm bảo cho sự phát triển về thể chất cũng như tinh thần của con chung và phù hợp với quy định tại Điều 69, 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Tại phiên tòa, nguyên đơn đồng ý giao con chung cho bị đơn trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, đây là ý chí tự nguyện của nguyên đơn nên được Hội đồng xét xử ghi nhận.

Nguyên đơn tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000 đồng (1.000.000 đồng/tháng) cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Xét đây là ý chí tự nguyện của nguyên đơn nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

2.3. Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[3] Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, án phí cấp dưỡng nuôi con:

Nguyên đơn phải chịu theo quy định của pháp luật.

[4] Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện D là phù hợp.

Vì các lẽ trên,  

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Các Điều 28, 39, 147, 179, 227, 228, 235, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự:

- Các Điều 8, 9, 19, 56, 69, 71, 72, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:

- Điều 17 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện “ly hôn; tranh chấp về nuôi con” của ông Nguyễn Hiệp H.

1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Hiệp H được ly hôn với bà Nguyễn Liễu Phương T.

2. Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Thành Đ, sinh ngày 13/7/2017 cho bà Nguyễn Liễu Phương T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Hiệp H về việc cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000 đồng (1.000.000 đồng/tháng) cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 03/2021.

Kể từ ngày bà T có đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông H không cấp dưỡng nuôi con đúng thời hạn, thì hàng tháng ông H còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian và số tiền chưa thi hành án.

Hai bên được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung theo quy định của pháp luật. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu.

3. Về tài sản chung: Không tranh chấp nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về nợ chung: Không tranh chấp nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

5. Về án phí:

Ông Nguyễn Hiệp H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm và 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí cấp dưỡng nuôi con, sau khi khấu trừ 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2016/0045072 ngày 30 tháng 9 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện D, ông Nguyễn Hiệp H còn phải nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng).

Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (08/02/2021).

Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt, niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2021/HNGĐ-ST ngày 08/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:05/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Dầu Tiếng - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về