Bản án 05/2021/DS-PT ngày 01/03/2021 về yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật quyền sử dụng đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 05/2021/DS-PT NGÀY 01/03/2021 VỀ YÊU CẦU CHẤM DỨT HÀNH VI CẢN TRỞ TRÁI PHÁP LUẬT QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 01 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 100/2020/TLPT-DS ngày 28 tháng 12 năm 2020 về việc:“Yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật quyền sử dụng đất”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số: 09/2020/DS-ST ngày 30/09/2020 của Tòa án nhân dân huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 06/2021/QĐXXPT – DS ngày 19 tháng 01 năm 2021 và Quyết định sửa chữa, bổ sung quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/QĐ-SCBSQĐĐVARXX ngày 20 tháng 01 năm 2021; Thông báo về việc thay đổi ngày xét xử số: 05/TB-DS ngày 28 tháng 01 năm 2021, giữa:

* Nguyên đơn: Ông Trương Văn Đ, sinh năm 1958.

Địa chỉ: Số..., phường Phước Hòa, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.

Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Nguyễn Đ, sinh năm 1957; địa chỉ Thôn ..., xã Diên Thạnh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.

* Bị đơn: Ông Đỗ Ngọc Kh, sinh năm 1977.

Địa chỉ: Tổ ..., thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hoà (chỗ ở hiện nay Tổ ..., thị trấn Diên Khánh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hoà). Có mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Nguyễn Văn H., Luật sư – Văn phòng luật sư Văn H., thuộc đoàn Luật sư tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.

* Người làm chứng: Ông Đỗ Ngọc K, sinh năm 1961.

Địa chỉ: Thôn, xã Diên Lạc, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hoà. Có mặt.

* Người kháng cáo: Ông Đỗ Ngọc K (bị đơn).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa, nội dung vụ án như sau:

* Theo đơn khởi kiện và quá trình tố tụng, nguyên đơn ông Trương Văn Đ. và người đại diện theo ủy quyền ông Nguyễn Đ. trình bày:

Ông Trương Văn Đ. là chủ sử dụng đất đối với các thửa đất số 1252, 1524, 1525, 1526, 1527 tờ bản đồ số 02 xã Diên Lạc theo các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: CP 979076, CP 97077, CP 979078, CP 979079 và CP 979080 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Khánh Hòa cấp ngày 31/01/2019.

Ngày 17/3/2019, ông Đ. phát hiện ông Đỗ Ngọc Kh. xây dựng hàng móng đá chẻ có gắn các trụ sắt trên phần đất của ông Đ. nêu trên. Ông Đ. đã yêu cầu ông Kh. phải tháo dỡ để trả lại đất nhưng ông Kh. không đồng ý. Do đó, ông Đ. khởi kiện yêu cầu ông Kh. phải trả lại phần đất bị lấn chiếm có diện tích 41,5m2 (chiều ngang 1,67m, dài khoảng 25m) tại các thửa đất số 1523, 1524, 1525, 1526, 1527 tờ bản đồ số 02 xã Diên Lạc và yêu cầu ông Kh. phải tháo dỡ công trình xây dựng trên đất là 01 hàng móng đá chẻ dài khoảng 25m và các trụ sắt gắn với hàng móng đá chẻ.

Quá trình giải quyết vụ án, ngày 26/11/2019 Tòa án nhân dân huyện Diên Khánh đã tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ, đo vẽ liên quan đến tài sản đang tranh chấp. Theo kết quả thẩm định, đo vẽ thì vị trí hàng móng đá chẻ (một lớp đá) dài 26,12m có gắn 10 trụ sắt ống tròn có đường kính (phi) 60mm, cao 1,5m tại đường đi chung tiếp giáp các thửa đất số 1523, 1524, 1525, 1526, 1527 tờ bản đồ số 02 xã Diên Lạc. Hiện nay hàng móng đá chẻ gắn các trụ sắt nêu trên vẫn giữ nguyên, không thay đổi. Việc làm của ông Kh. đã gây cản trở, khó khăn đối với quá trình đi lại, ra vào các thửa đất của nguyên đơn, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn được Nhà nước bảo vệ.

Nay nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện. Cụ thể, nguyên đơn không yêu cầu bị đơn trả lại phần đất có diện tích 41,5m2 theo nội dung tại đơn khởi kiện; chỉ yêu cầu bị đơn chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền khác đối với tài sản, buộc bị đơn phải tháo dỡ công trình xây dựng là hàng móng đá chẻ (một lớp đá) dài 26,12m có gắn 10 trụ sắt ống tròn (phi 60mm, cao 1,5m) có vị trí tại đường đi chung, tiếp giáp các thửa 1523, 1524, 1525, 1526, 1527 tờ bản đồ số 02 xã Diên Lạc, huyện Diên Khánh.

* Tại các lời khai, bị đơn ông Đỗ Ngọc Kh. trình bày: Ông xác định hàng móng là một lớp đá chẻ dài 26,12m có gắn 10 trụ sắt ống tròn mà nguyên đơn yêu cầu ông phải tháo dỡ là do ông làm. Tuy nhiên, vị trí ông làm hàng móng đá chẻ này được xây dựng trên phần đất của ông theo giấy tặng cho đất ngày 03/8/2009 của ông Đỗ Ngọc K.. Dù giấy tặng cho đất không có công chứng, chứng thực của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền và đất tặng cho này chưa được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông, nhưng thực tế ông là người trực tiếp sử dụng phần đất này để làm đường đi. Hiện trạng tài sản tranh chấp hiện nay không có gì thay đổi so với thời điểm Tòa án tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ ngày 26/11/2019. Ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

* Người làm chứng ông Đỗ Ngọc K. trình bày: Ông là anh ruột của ông Đỗ Ngọc Kh., ông được biết phần đường đi mà hiện nay ông Kh. xây dựng móng đá chẻ có gắn các trụ sắt trước đây thuộc thửa đất 669 có diện tích 2025m2, tờ bản đồ số 02 xã Diên Lạc thuộc quyền sử dụng của hộ bà Lê Thị K. theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện Diên Khánh cấp ngày 15/6/1998. Năm 2007, mẹ của ông là bà K. cho ông thửa đất này nhưng không làm thủ tục sang tên chủ sử dụng đất. Ngày 03/8/2009, ông lập giấy cho phần đất có chiều rộng 5m, chiều dài bằng thửa đất số 669 để ông Kh.

dùng làm đường đi. Việc tặng cho không có công chứng, chứng thực của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Đến năm 2012, ông mới chính thức được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất thửa số 669 nêu trên. Năm 2018, ông chuyển nhượng thửa đất này cho bà Nguyễn Phi Phượng H. có diện tích 1865m2, phần diện tích còn lại để cho ông Kh. làm đường đi. Việc ông Kh. xây hàng móng đá chẻ có gắn các trụ sắt cụ thể khi nào ông không rõ. Ông không tranh chấp, không phải là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án này.

Bản án dân sự sơ thẩm số: 09/2020/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa đã quyết định:

Áp dụng các Điều 147, 157, 165, 227, 229, 244, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Áp dụng các Điều 159, 164, 169, 174 của Bộ luật Dân sự.

Áp dụng các Điều 24, 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

1. Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trương Văn Đ. về việc yêu cầu bị đơn ông Đỗ Ngọc Kh. trả phần đất có diện tích 41,5m2 thuộc các thửa đất số 1523, 1524, 1525, 1526, 1527 tờ bản đồ số 02 xã Diên Lạc, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa.

2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trương Văn Đ. về việc yêu cầu bị đơn ông Đỗ Ngọc Kh. phải chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền khác đối với tài sản. Buộc ông Đỗ Ngọc Kh. phải tháo dỡ hàng móng đá chẻ có cấu trúc một lớp đá, rộng 14cm-23cm, dài 26,12m có gắn 10 trụ sắt ống tròn, đường kính 60mm, cao 1,5m có vị trí tại đường đi chung (đường đất), tiếp giáp với các thửa 1523, 1524, 1525, 1526, 1527 tờ bản đồ số 02 xã Diên Lạc, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa (có bản vẽ kèm theo bản án).

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, chi phí tố tụng, thi hành án và quyền kháng cáo của đương sự.

Ngày 26 tháng 10 năm 2020, ông Đỗ Ngọc Kh. có đơn kháng cáo toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 09/2020/DS-ST ngày 30/9/2020, yêu cầu Tòa án phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật, vì Tòa án cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và xét xử, bản án sơ thẩm không công bằng, xâm phạm quyền lợi hợp pháp của gia đình ông Kh..

* Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Ông Đỗ Ngọc Kh. giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo và trình bày:

Ông Kh. xây một lớp đá chẻ dài 26,12m có gắn 10 trụ sắt ống tròn trên phần đất của gia đình ông theo giấy tặng cho ngày 03/8/2009 của ông Đỗ Ngọc K.

và anh em trong gia đình; phần đất này được gia đình ông làm đường đi duy nhất vào nhà ông thuộc thửa đất số 665, tờ bản đồ số 2 xã Diên Thạnh. Vật tư và tiền công xây dựng hàng trụ là tài sản chung của vợ chồng ông. Ngày 11/6/2020, tại buổi họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, ông đã yêu cầu Thẩm phán cho vợ ông là bà Lê Trần Thục Đ. vào tham gia phiên họp, tham gia vụ án nhưng Thẩm phán không đồng ý. Sau đó, ông có nhận quyết định hoãn phiên tòa một lần và Tòa án xét xử vắng mặt ông là vi phạm tố tụng, xâm phạm quyền lợi hợp pháp của gia đình ông trong đó có vợ ông.

Ngày 23 tháng 10 năm 2020, bà Lê Trần Thục Đ. có đơn kháng cáo bản án nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không có thông báo về việc kháng cáo cũng không có tài liệu về việc giải quyết đơn của bà Đ. là không đúng pháp luật và xâm phạm quyền lợi hợp pháp của bà Đ..

- Luật sư Nguyễn Văn H. trình bày: Quá trình giải quyết và xét xử vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng dẫn đến quyết định không đúng pháp luật, xâm phạm quyền lợi hợp pháp của vợ chồng ông Kh. bà Đ., cụ thể:

Tòa án xét xử vụ án “Tranh chấp về yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền khác đối với tài sản” là vi phạm thẩm quyền, tại Thông báo thụ lý vụ án số:70/2019/TB-TLVA ngày 29/7/2019 xác định “Tòa án nhân dân huyện Diên Khánh thụ lý vụ án dân sự số 70/2019/TB-TLVA về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”” nhưng trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện là “Tranh chấp quyền sử dụng đất” thì Tòa án phải ra quyết định đình chỉ vụ án. Đối với yêu cầu “Tranh chấp về yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền khác đối với tài sản” là yêu cầu mới nên phải được thụ lý và giải quyết bằng vụ án mới theo quy định của pháp luật, việc Tòa án cấp sơ thẩm không ban hành Thông báo thụ lý vụ án đối với yêu cầu mới mà vẫn tiến hành giải quyết, xét xử là vi phạm rất nghiêm trọng.

Không đưa bà Lê Trần Thục Đ. (vợ ông Kh.) tham gia tố tụng là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, xâm phạm quyền lợi hợp pháp của bà Đ..

Ông Kh. chỉ nhận được Quyết định hoãn phiên tòa số: 07/2020/QĐST-DS ngày 24/9/2020 nhưng ngày 30/9/2020 Tòa án xử vắng mặt ông Kh. là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, xâm phạm quyền lợi hợp pháp của ông Kh..

Sơ đồ bản vẽ kèm theo bản án sơ thẩm không đúng với thực tế, hàng trụ ông Kh. làm cách ranh giới đất của ông Đ. 1,5m đủ để đi vào các lô đất, nhưng bản vẽ lại xác định hàng trụ ông Kh. làm ngay ranh giới đất ông Đ. làm cho lô đất không có lối vào, gây cho người xem sơ đồ hiểu sai bản chất vụ việc nên ông Khánh không đồng ý sơ đồ bản vẽ và yêu cầu Tòa án cấp sơ thẩm đo vẽ lại theo đúng thực tế.

Vì vậy, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy toàn bộ vụ án, giao hồ sơ cho Tòa án sơ thẩm giải quết theo quy định của pháp luật.

- Ông Nguyễn Đ. trình bày, ông Khánh xây trụ rào trên đất được xác định là đường đi do Nhà nước quản lý, có vị trí ngay sát các thửa đất thuộc quyền sử dụng của ông Đ. là thể hiện sự coi thường pháp luật, cản trở quyền sử dụng đất của ông Đ. được pháp luật bảo vệ; ông Kh. không có tài liệu xác định phần đất này thuộc quyền sử dụng của ông. Bản án sơ thẩm là có căn cứ, đúng pháp luật và yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm bác toàn bộ kháng cáo của ông Đỗ Ngọc Kh..

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa phát biểu:

Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng được thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Kh. xác định một lớp đá chẻ dài 26,12m có gắn 10 trụ sắt ống tròn đường kính 60mm là tài sản chung của vợ chồng ông Kh. và bà Đ., Tòa án cấp sơ thẩm không làm rõ việc xây móng đá và trụ sắt là của vợ chồng ông Khánh hay của riêng ông Kh.. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử tạm ngừng phiên tòa để lấy lời khai ông Kh. và bà Đ., thu thập bổ sung các nội dung trên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật: Ông Trương Quang Đ. yêu cầu ông Đỗ Ngọc Kh. tháo dỡ hàng móng đá chẻ dài 26,12m có gắn 10 trụ sắt ống tròn tiếp giáp các thửa 1523, 1524, 1525, 1526, 1527 tờ bản đồ số 02 xã Diên Lạc, huyện Diên Kh. làm cho ông Đ.. không có lối đi vào các thửa đất là “Yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sử dụng đất” theo quy định tại khoản 14 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Về kháng cáo của ông Đỗ Ngọc Kh.:

[2.1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Tại Thông báo thụ lý vụ án số:

70/2019/TB-TLVA ngày 29/7/2019, Tòa án nhân dân huyện Diên Khánh xác định quan hệ pháp luật giải quyết là “Tranh chấp quyền sử dụng đất”, nguyên đơn là ông Trương Văn Đ. yêu cầu ông Đỗ Ngọc Kh. phải trả lại phần diện tích đã lấn chiếm có diện tích 41,5m2, thuộc các thửa đất số 1523, 1524, 1525, 1526, 1527 tờ bản đồ số 02, xã Diên Lạc và huyện Diên Khánh và tháo dỡ 07 cọc sắt, 01 bờ tường dài khoảng 25m đã xây dựng trên phần diện tích tranh chấp. Trong quá trình giải quyết vụ án, xác định ông Kh. xây dựng hàng móng đá chẻ dài 26,12m có gắn 10 trụ sắt ống tròn đường kính 60mm, cao 1,5m, có vị trí tại đường đi chung, không phải trên phần đất của ông Đ.. Tại biên bản hòa giải ngày 11/6/2020, nguyên đơn rút yêu cầu buộc ông Khánh trả phần đất có diện tích 41,5m2 và chỉ yêu cầu bị đơn chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền khác đối với tài sản, buộc bị đơn phải tháo dỡ công trình xây dựng là hàng móng đá chẻ có gắn 10 trụ sắt ống tròn nêu trên. Tòa án cấp sơ thẩm cần ban hành Thông báo thụ lý bổ sung, xác định quan hệ pháp luật là “Yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật quyền sử dụng đất” và giải quyết vụ án theo quy định chung của pháp luật.

[2.2] Về việc tham gia tố tụng của bà Lê Trần Thục Đ.: Sau khi nhận được bản án sơ thẩm, bà Đ. làm đơn kháng cáo bản án vì cho rằng bản án cấp sơ thẩm là không đúng pháp luật, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận và không làm thủ tục kháng cáo của bà Đ. là đúng, tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm không có văn bản về giải quyết đơn của bà Đ. là có thiếu sót. Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Kh. xác định một lớp đá chẻ dài 26,12m có gắn 10 trụ sắt ống tròn đường kính 60mm là tài sản chung của vợ chồng ông Kh. và bà Đ., ông Kh. không đồng ý đưa bà Đ. tham gia tố tụng tại giai đoạn phúc thẩm; Tòa án cấp sơ thẩm không làm rõ một lớp đá chẻ dài 26,12m có gắn 10 trụ sắt ống tròn là tài sản riêng của ông Kh. hay của chung vợ chồng ông Kh., bà Đ., không đưa bà Đ. tham gia tố tụng là vi phạm khoản 4 Điều 68 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2.3] Về việc xét xử vắng mặt ông Đỗ Ngọc Kh.:

Ngày 10/9/2020, Tòa án nhân dân dân huyện Diên Khánh ban hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2020/QĐXXST-DS và tống đạt cho ông Đỗ Ngọc Kh. theo địa chỉ: Tổ dân phố Dinh Thành 1, TT. Diên Khánh, huyện Diên Khánh qua Bưu điện. Ngày 12/9/2020, Bưu điện xác định không để lại địa chỉ/không tìm thấy và chuyển hoàn văn bản tống đạt cho Tòa án nhân dân huyện Diên Khánh. Ngày 24/9/2020, Tòa án nhân dân dân huyện Diên Khánh hoãn phiên tòa theo Quyết định hoãn phiên tòa số: 07/2020/QĐST-DS vì ông Kh. vắng mặt lần thứ nhất. Cũng trong ngày 24/9/2020, Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành xác minh nơi cư trú của ông Khánh tại Công an thị trấn Diên Khánh, xác định ông Kh. không cư trú tại Tổ dân phố Dinh Thành 1, TT. Diên Khánh mà có hộ khẩu thường trú tại Tổ dân phố Phan Bội Châu 1, TT. Diên Khánh. Đồng thời, giao Quyết định hoãn phiên tòa số: 07/2020/QĐST-DS cho ông Nguyễn Mười - Tổ trưởng Tổ dân phố Phan Bội Châu 1, TT. Diên Khánh để tống đạt cho ông Đỗ Ngọc Kh..

Ngày 25/9/2020, ông Đỗ Ngọc Kh. có đơn kiến nghị gửi Tòa án nhân dân huyện Diên Khánh (Tòa án nhận ngày 28/9/2020) và Viện kiểm sát nhân dân huyện Diên Khánh về việc không đồng ý Quyết định hoãn phiên tòa số: 07/2020/QĐST- DS ngày 24/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện Diên Khánh, vì ông Kh. không nhận được giấy mời (hoặc giấy triệu tập) tham gia phiên tòa, ông Kh. không thực hiện Quyết định hoãn phiên tòa số: 07/2020/QĐST-DS ngày 24/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện Diên Khánh cho đến khi Tòa án có văn bản giải trình thỏa đáng.

Như vậy, việc cấp, tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2020/QĐXXST-DS ngày 10/9/2020 của Tòa án nhân dân dân huyện Diên Khánh cho ông Đỗ Ngọc Kh. là chưa bảo đảm theo quy định tại Điều 174 và Điều 175 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Ngày 30/9/2020, Tòa án nhân dân huyện Diên Kh. xét xử vắng mặt ông Kh. là chưa đúng quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[3] Từ nhận định [2.2] và [2.3], Tòa án cấp sơ thẩm không làm rõ một lớp đá chẻ dài 26,12m có gắn 10 trụ sắt ống tròn là tài sản riêng của ông Khánh hay của chung vợ chồng ông Kh., bà Đ., không đưa bà Đ. vào tham gia tố tụng và xét xử vắng mặt ông Kh. khi mới tống đạt hợp lệ lần thứ nhất là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Kh. và bà Đ. mà không thể bổ sung tại Tòa án cấp phúc thẩm được, nên Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của ông Đỗ Ngọc Khánh., hủy bản án sơ thẩm, giao hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại.

[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do chấp nhận kháng cáo của ông Đỗ Ngọc Kh, hủy bản án sơ thẩm nên ông Kh. không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 3 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

- Chấp nhận kháng cáo của ông Đỗ Ngọc Kh.;

1. Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số: 09/2020/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa.

2. Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa giải quyết lại theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Đỗ Ngọc Kh. không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Trả lại cho ông Đỗ Ngọc Kh. số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn năm trăm đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/0001898 ngày 03/11/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

962
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2021/DS-PT ngày 01/03/2021 về yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật quyền sử dụng đất

Số hiệu:05/2021/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Khánh Hoà
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:01/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về