Bản án 05/2020/HS-ST ngày 14/02/2020 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA BÌNH, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 05/2020/HS-ST NGÀY 14/02/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 14/02/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 04/2020/TLST- HS ngày 17/01/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2020/QĐXXST-HS ngày 31/01/2020 đối với bị cáo:

Trịnh Thị H, sinh năm 1969 tại Bắc Ninh;

Nơi đăng ký HKTT: Thôn N, thị trấn G, huyện G, tỉnh Bắc Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trịnh Mạnh T (đã chết) và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1942; có chồng là: Nguyễn Văn T, sinh năm 1961 (đã ly hôn) và có 02 con, con lớn sinh năm 1988 và con nhỏ sinh năm 1991; tiền án: Không; tiền sự: Có 01 tiền sự là: Ngày 18/10/2019, bị Trưởng Công an xã Đại Bái, huyện Gia Bình ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh bạc”, hình thức phạt tiền, mức phạt 1.500.000 đồng; nhân thân: Bản án số 13/2017/HSST ngày 26/4/2017 của Tòa án nhân dân huyện Gia Bình xử phạt 05 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng, phạt bổ sung 3 triệu đồng về tội “Đánh bạc”. Đã được xóa án tích; bị bắt tạm giữ từ ngày 27/11/2019 đến ngày 30/11/2019, được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; hiện tại ngoại; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Phạm Văn T, sinh năm 1975, có mặt;

Địa chỉ: Thôn A, xã L, huyện G, tỉnh Bắc Ninh.

2. Chị Nguyễn Thị Y, sinh năm 1979, vắng mặt;

Địa chỉ: Thôn N, xã Đ, huyện G, tỉnh Bắc Ninh.

3. Anh Bùi Thế T, sinh năm 1969, vắng mặt;

Địa chỉ: Thôn N, xã Đ, huyện G, tỉnh Bắc Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ 15 phút ngày 27/11/2019, tại phòng khách tầng 2 nhà ở của ông Nguyễn Huy T ở Thôn N, xã Đ, huyện G, tỉnh Bắc Ninh, tổ công tác Công an huyện Gia Bình bắt quả tang các đối tượng Trịnh Thị H, Phạm Văn T, Nguyễn Thị Y và Bùi Thế T có hành vi đánh bạc sát phạt nhau bằng tiền dưới hình thức “Chơi phỏm”. Thu giữ trên mặt chiếu bạc số tiền 4.300.000 đồng, 01 chiếu nhựa, 01 bộ bài tây và 50.000 đồng bên trong hộp giấy để gần chiếu bạc; thu giữ trong người T số tiền 4.940.000 đồng, T khai nhận không sử dụng số tiền này vào mục đích đánh bạc.

Tại Cơ quan Điều tra, các đối tượng khai nhận hành vi đánh bạc của bản thân như sau: Ngày 27/11/2019, Y đến nhà bố đẻ là ông Nguyễn Huy T ở cùng thôn để trông nhà giúp do nhà ông T1 đi vắng. Tại đây, Y gọi điện thoại rủ T, Th và H đến nhà ông T1 cùng chơi. Khi T, Th, H đến nhà ông T1 thì gặp Y và cùng ngồi chơi, uống nước đến khoảng 11 giờ thì cả nhóm rủ nhau lên phòng khách tầng 2 nhà ông T1 để chơi đánh bạc sát phạt nhau bằng tiền. Các đối tượng quy ước, đánh bạc sát phạt nhau bằng tiền dưới hình thức “Đánh phỏm”, sử dụng bộ bài tây 52 quân để chơi, mức độ sát phạt là “Ù” bằng 100.000 đồng. Nếu không có người chơi nào “Ù” thì tính điểm, người nào có ít điểm nhất thì được ăn tiền của các người chơi còn lại, người về nhì, ba, bét phải trả cho người về nhất lần lượt là 20.000 đ, 40.000 đ và 60.000 đ. Người chơi không có phỏm thì gọi là “móm” và phải trả cho người về nhất số tiền 80.000 đồng.

Ngoài ra, các đối tượng khai nhận số tiền mang theo và tiền đã sử dụng để đánh bạc như sau:

H khai nhận: Khi tham gia đánh bạc, H mang theo số tiền 1.200.000 đ và sử dụng toàn bộ số tiền này vào việc đánh bạc, đến khi bị bắt quả tang H vẫn còn 1.200.000 đ và để số tiền này trên mặt chiếu bạc. Quá trình chơi bạc tại nhà Y, H không phải nộp tiền gì cho Y.

Y khai: Trước khi vào chơi, Y có khoảng 800.000 đồng và sử dụng tất cả số tiền trên để đánh bạc, đến khi bị bắt quả tang Y không thắng, không thua và để toàn bộ số tiền còn lại trên mặt chiếu bạc. Bộ bài tây và chiếc chiếu nhựa đã có sẵn từ trước ở nhà bố mẹ Y, Y không biết ai chuẩn bị. Quá trình chơi bạc Y không thu tiền của những người chơi.

T khai: Khi vào chơi T có khoảng hơn 5.000.000 đồng, T không nhớ rõ số tiền cụ thể. T lấy 600.000 đồng để dùng cho việc đánh bạc, đến khi bị bắt quả tang T còn lại 300.000 đồng để trên chiếu bạc và bị thu giữ trên người số tiền 4.940.000 đồng, T khai nhận không dùng số tiền này vào việc đánh bạc. Nếu thua hết 600.000 đồng đã bỏ ra để đánh bạc, T sẽ dừng chơi. Quá trình chơi bạc tại nhà Y, T không phải nộp tiền gì cho Y.

Th khai: Khi vào chơi, Th có 600.000 đồng và sử dụng toàn bộ số tiền này vào việc đánh bạc, đến khi bị bắt quả tang Th thua khoảng 100.000 đồng, số tiền còn lại Th để trên mặt chiếu bạc. Quá trình chơi bạc tại nhà Y, Th không phải nộp tiền gì cho Y.

Quá trình điều tra xác định số tiền các đối tượng sử dụng để đánh bạc là 4.300.000 đồng.

*. Tại bản cáo trạng số: 04/CT-VKS-GB ngày 15/01/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh đã truy tố Trịnh Thị H về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự.

*. Tại phiên toà hôm nay, bị cáo H đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là T thừa nhận toàn bộ hành vi đánh bạc ăn tiền dưới hình thức “Đánh phỏm” cùng với bị cáo H.

Trong quá trình điều tra, những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là T, Y và Th cũng thừa nhận toàn bộ hành vi đánh bạc ăn tiền dưới hình thức “Đánh phỏm” cùng với bị cáo H.

*. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa, giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo. Luận tội và đề nghị như sau:

- Tuyên bố bị cáo Trịnh Thị H phạm tội “Đánh bạc”;

Áp dụng khoản 1 và khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo H từ 06 tháng đến 09 tháng tù;

Hình phạt bổ sung: Phạt bị cáo từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng để sung vào công quỹ Nhà nước.

- Còn đối với T, Y và Th, có hành vi đánh bạc cùng với H, tuy nhiên do số tiền các đối tượng sử dụng để đánh bạc nhỏ, chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, bản thân T, Y và Th chưa bị xử phạt vi phạm hành chính và cũng chưa có tiền án về các tội quy định tại Điều 321 và 322 của Bộ luật hình sự nên Công an huyện Gia Bình đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp. Do đó, không đề cập xử lý.

- Về việc xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

+. Tịch thu sung vào công quỹ Nhà nước 4.300.000 đồng thu giữ của bị cáo H và những người tham gia đánh bạc cùng bị cáo H (là T, Y và Th) là số tiền những người này dùng vào việc đánh bạc;

+. Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tây 52 quân và 01 chiếu nhựa bị thu giữ.

*. Sau khi nghe bản luận tội của Kiểm sát viên, bị cáo không có ý kiến tranh luận, đối đáp và bào chữa, mà thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình là đúng như bản luận tội đã nêu; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt cũng không có ý kiến gì tranh luận và đối đáp.

Lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt và miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra và tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Nhận thấy, tại phiên toà hôm nay bị cáo Trịnh Thị H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với nội dung bản cáo trạng, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đã có đủ cơ sở để xác định: Trong khoảng thời gian từ 11 giờ đến 12 giờ 15 phút ngày 27/11/2019, tại gian phòng khách tầng 2 nhà ở của ông Nguyễn Huy T ở Thôn N, xã Đ, huyện G, tỉnh Bắc Ninh, tổ công tác Công an huyện Gia Bình bắt quả tang Trịnh Thị H, Phạm Văn T, Nguyễn Thị Y và Bùi Thế T đang có hành vi đánh bạc ăn tiền dưới hình thức “đánh phỏm”; số tiền các đối tượng sử dụng để đánh bạc là 4.300.000 đồng. Mặc dù số tiền các đối tượng sử dụng để đánh bạc dưới 5.000.000 đồng, nhưng bản thân H đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này. Ngoài ra, hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm vào trật tự an toàn công cộng. Bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Khi thực hiện tội phạm, bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi theo luật định. Do vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Bình đã truy tố.

- Còn đối với T, Y và Th, có hành vi đánh bạc cùng với H, tuy nhiên do số tiền các đối tượng sử dụng để đánh bạc nhỏ, chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, bản thân T, Y và Th chưa bị xử phạt vi phạm hành chính và cũng chưa có tiền án về các tội quy định tại Điều 321 và 322 của Bộ luật hình sự nên Công an huyện Gia Bình đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành hành chính, do đó đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa đề nghị không đề cập xử lý là phù hợp. 

[2]. Về nhân thân, tính chất, mức độ của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Nhận thấy, dù bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào và tội phạm của bị cáo gây ra là nguy hại không lớn cho xã hội, nhưng bị cáo đã có 01 tiền sự; ngoài ra, bị cáo còn có nhân thân xấu cũng về hành vi này, chứng tỏ bị cáo là người khó giáo dục, cải tạo và coi thường pháp luật; mặt khác, hành vi của bị cáo ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân. Do đó, cần phải có mức hình phạt thật nghiêm tương ứng, cho bị cáo cách ly xã hội một thời gian, để có tác dụng giáo dục bị cáo nói riêng, răn đe phòng ngừa chung, không tạo ra tiền lệ xấu và góp phần làm trong sạch, lành mạnh đời sống xã hội và niềm tin vào pháp luật của nhân dân.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51của Bộ luật hình sự. Do đó, khi lượng hình cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[3]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 3 Điều 321 của Bộ Luật hình sự thì còn có thể phạt tiền đối với bị cáo. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập và trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm thì bị cáo bị tai nạn giao thông bị gãy chân phải nằm viện điều trị, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo là phù hợp.

[4]. Về việc xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, cần:

+. Tịch thu sung vào công quỹ Nhà nước 4.300.000 đồng thu giữ của bị cáo H và những người tham gia đánh bạc cùng bị cáo H (là T, Y và Th) là số tiền những người này dùng vào việc đánh bạc;

+. Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tây 52 quân và 01 chiếu nhựa bị thu giữ.

[5]. Về các vấn đề khác:

5.1. Đối với ông Nguyễn Huy T là chủ nhà. Quá trình điều tra xác định ngày 27/11/2019 ông T1 nhờ con gái Y đến trông nhà hộ, ông T1 không biết việc Y, H, T và Th sử dụng gian phòng khách tầng 2 nhà ông vào việc đánh bạc ăn tiền, do đó cơ quan điều tra không xem xét xử lý đối với ông T1 là phù hợp.

5.2. Đối với số tiền 50.000 đồng bên trong hộp giấy để gần chiếu bạc thu giữ trên mặt chiếu bạc và thu giữ trong người T số tiền 4.940.000 đồng. Quá trình điều tra xác định T không dùng số tiền 4.940.000 đồng vào việc đánh bạc và số tiền 50.000 đồng để trong hộp giấy gần chiếu bạc là của Y, Y bỏ lại từ trước, Y không dùng số tiền này vào việc đánh bạc. Ngày 15/12/2019 Cơ quan điều tra đã trả lại số tiền trên cho T và Y. Do đó, không đề cập xem xét.

[6]. Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

 Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự; Điều 123 của Bộ luật tố tụng hình sự.

1.1. Tuyên bố bị cáo Trịnh Thị H phạm tội “Đánh bạc”.

1.2. Xử phạt bị cáo Trịnh Thị H 07 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù, được tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án nhưng được trừ đi thời gian bị cáo đã bị tạm giữ (từ ngày 27/11/2019 đến ngày 30/11/2019).

1.3. Cấm đi khỏi nơi cư trú đối với Trịnh Thị H kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm chấp hành án phạt tù.

2. Về việc xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

2.1. Tịch thu sung vào công quỹ Nhà nước 4.300.000 đồng thu giữ của bị cáo H và những người tham gia đánh bạc cùng bị cáo H (là T, Y và Th) là số tiền những người này dùng vào việc đánh bạc;

2.2. Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tây 52 quân và 01 chiếu nhựa bị thu giữ.

Toàn bộ vật chứng nêu trên được mô tả theo đúng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/01/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Gia Bình.

3. Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hoặc niêm yết bản án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

259
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2020/HS-ST ngày 14/02/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:05/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Bình - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về