Bản án 05/2020/HSST ngày 10/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 05/2020/HSST VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 10 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La mở phiên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 02/2019/HSST, ngày 20-12-2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2019/QĐXXST-HS ngày 30-12-2019 đối với bị cáo:

Lường Văn T; tên gọi khác: Không; sinh năn: 1995; tại xã CPhuyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản N, xã Chiềng Pấc, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: Trồng trọt; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Lường Văn Q (đã chết) và bà Lò Thị N; sinh năm: 1977; bị cáo có vợ: Lèo Thị T, sinh năm: 2001; tiền sự: Ngày 29-5-2017 bị Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La ra Quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 16 ( mười sáu) tháng; tiền án: Không; bị cáo bị bắt giam giữ kể từ ngày 10-10-2019, cho đến nay bị cáo có mặt tại phiên tòa.

*) Người bào chữa cho bị cáo Lường Văn T: Ông Đàm Mạnh Hùng - Trợ giúp viên pháp lý - thuộc Trung T trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La. (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 50 phút, ngày 25-6-2019, Tổ công tác Ban Công an xã TL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực hang bản T. thuộc địa phận bản T, xã TL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La phát hiện 03 đối tượng đang có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra thì Lường Văn T, trú tại: Bản N, xã CP, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đã bỏ trốn. Còn Quàng Văn T; trú tại: Bản N, xã CP, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La và Lò Văn B; trú tại: bản B, xã BM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đã bị tổ công tác khống chế và lập biên bản về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ vật chứng gồm:

- 01 (một) gói nilon màu hồng, bên trong có chứa một ít chất bột cục màu trắng nghi là Heroine (TA, B đều khai là Heroine), có khối lượng 0,12 gam ký hiệu T1 và một mảnh viên nén hình trụ màu hồng, nghi là ma túy tổng hợp (TA, B đều khai là ma túy tổng hợp), có khối lượng 0,09 gam, ký hiệu T2. Rút toàn bộ 0,12 gam chất bột màu trắng ký hiệu T1 và toàn bộ mảnh nén hình trụ màu hồng có khối lượng 0,09 gam ký hiệu T2 làm mẫu vật gửi giám định chất ma túy.

- 01 điện thoại di động, nhãn hiệu NOKIA, màu đen, đã qua sử dụng.

- 01 (một) chiếc mô tô, bưởng máy bên trái có chữ DETECH TAIWAN, bưởng máy bên trái có chữ DETECH không xác định được loại xe, màu sắc, không xác định được số khung, số máy, không biển kiểm soát, xe không yếm, gương, xe đã qua sử dụng.

- 01 mảnh giấy bạc đốt dở không rõ hình.

- 01 bật lửa ga màu đỏ, đã qua sử dụng.

Tại bản Kết luận giám định số: 1180/KLMT, ngày 27-6-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La: “ Mẫu gửi giám định ký hiệu T1 là chất ma túy, loại chất Heroine, tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,12 gam. Mẫu gửi giám định ký hiệu T2 là chất ma túy, loại chất Methamphetamin, tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,09 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ được là: 0,12 gam loại Heroine và 0,09 gam loại Methamphetamine”. (Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định).

Tại cơ quan điều tra bị cáo Lường Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như sau:

Khoảng 14 giờ, ngày 25-6-2019, Lường Văn T một mình điều khiển xe máy không biển kiểm soát đến nhà Quàng Văn TA ( người cùng bản) chơi thì gặp Lò Văn B; trú tại: Bản B, xã BM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La tại nhà TA. Lúc này T đã rủ TA và B góp tiền đi mua ma túy về sử dụng. TA và B đồng ý. TA đưa cho T 100.000đ, B đưa cho T 60.000đ. Tổng cộng là 160.000đ. T cầm tiền rồi điều khiển xe máy của mình chở TA và B đi lên xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La để tìm mua ma túy. Đến bản T, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La thì T dừng xe cho TA và B đứng đợi, còn T một mình điều khiển xe đi vào trong bản T. Đến nơi T gặp và hỏi mua được của một người đàn ông ( T không biết tên và địa chỉ ở đâu) được 02 viên ma túy tổng hợp và một ít bột màu trắng được gói bằng nilon màu hồng với giá 160.000đ. Sau khi mua được ma túy, T quay lại chỗ TA và B và điều kiển xe mô tô chở TA và B đi lên hang bản Thẳm, thuộc địa phận bản Thẳm, xã Tông Lạnh, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La để sử dụng ma túy. Đến nơi, T bỏ gói ma túy vừa mua được san ra một ít bột màu trắng và 01 viên ma túy tổng hợp đốt để sử dụng trước, TA và B sử dụng sau. Số ma túy còn lại T gói vào nilon màu hồng để dưới đất trước mặt. Khi T, TA, B vừa sử dụng ma túy xong thì bị tổ Công tác Công an xã Tông Lạnh, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đến yêu cầu kiểm tra ma túy. Quá trình kiểm tra bắt giữ được Quàng Văn TA, Lò Văn B và thu giữ được toàn bộ vật chứng như đã nêu trên. Còn Lường Văn T lợi dụng sơ hở đã bỏ chạy và bỏ đi làm thuê. Đến ngày 10-10-2019 Lường Văn T bị Công an Quận Nam Từ Liêm – Hà Nội bắt theo lệnh truy nã của Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La.

Bản cáo trạng số: 02/CT-VKS, ngày 20-12-2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đề nghị truy tố bị cáo Lường Văn T về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Lường Văn T về điều, khoản và tội danh trên.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Lường Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Lường Văn T mức án từ 24 (hai mươi bốn) tháng đến 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10-10-2019.

Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Lường Văn T.

Về vật chứng: Đã được xử lý tại bản án số: 135/2019/HSST, ngày 31-10-2019 của Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La .

Bị cáo Lường Văn T phải chịu toàn bộ án phí Hình sự sơ thẩm.

Ý kiến của bị cáo Lường Văn T: Nhất trí như lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về nhà với gia đình và xã hội.

Ý kiến của luật sư bào chữa cho bị cáo Lường Văn T: Nhất trí như lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự: Đề nghị xử phạt bị cáo Lường Văn T mức án thấp nhất trong khung hình phạt và miễn án phí HSST cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều là hợp pháp.

[2]. Ngày 26-6-2019, Lường Văn T; trú tại: Bản N, xã CP, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La cùng với Quàng Văn TA, trú tại: Bản N, xã CP, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La và Lò Văn B; trú tại: Bản B, xã BM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,12 gam, Heroine và 0,09 gam Methamphetamine. Tổng khối lượng hai chất ma túy tàng trữ là 0,21gam. Mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân.

Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo Lường Văn T tại phiên tòa ngày hôm nay, hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 25-6-2019 và các tài liệu khác có trong hồ sơ. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Trên cơ sở đó có đầy đủ điều kiện, đủ căn cứ kết luận bị cáo Lường Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Như quyết định truy tố và quan điểm luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La tại phiên tòa là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Lường Văn T, tàng trữ trái phép chất ma tuý với khối lượng không lớn, mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, làm lây lan phát sinh các tệ nạn ma tuý và những tệ nạn xã hội khác. Là hành vi nguy hiểm cho xã hội gây mất trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Cần vận dụng điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự có mức án phạt tù từ 01 năm đến 05 năm đối với bị cáo Lường Văn T.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu, tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo Lường Văn T thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự.

Xét vai trò của bị cáo Lường Văn T là người khởi xướng, rủ Quàng Văn TA, Lò Văn B góp tiền đi mua ma túy và là người trực tiếp đi mua ma túy, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội một cách tích cực. Do vậy cần vận dụng Điều 58 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.

Xét lời bào chữa của người bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa ngày hôm nay đề nghị HĐXX xem xét các tình tiết giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là có căn cứ, cần được chấp nhận.

Song nhân thân bị cáo là người nghiện ma túy, đã có một tiền sự chưa hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là nhân thân xấu. Bị cáo nhận thức rõ tác hại của ma tuý nhưng do coi thường pháp luật nên cố tình phạm tội nghiêm trọng. Nay xét thấy cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người làm ăn lương thiện có ích cho xã hội. Cần lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới đảm bảo tính chất nghiêm minh của pháp luật, giáo dục và phòng ngừa chung. Nhất là công tác phòng chống tội phạm và tội phạm ma tuý trong giai đoạn hiện nay.

Bị cáo Lường Văn T đang bị tạm giam, nay Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo trong hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án. Vận dụng khoản 1, khoản 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.

Ngoài hình phạt chính là phạt tù bị cáo Lường Văn T còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự. Xét thấy bị cáo không có tài sản riêng, không có đủ điều kiện và khả năng thi hành hình phạt bổ sung. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về nguồn gốc số ma túy Lường Văn T khai mua của một người đàn ông dân tộc Thái (Lường Văn T không biết họ tên và địa chỉ cụ thể ở đâu) tại bản Thôm, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La vào ngày 25-6-2019 với giá 160.000đ. Do chỉ có lời khai duy nhất của Lường Văn T, ngoài ra không có chứng cứ nào khác, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La không có căn cứ để điều tra xử lý.

Đối với Quàng Văn TA, Lò Văn B là đồng phạm với Lường Văn T đã bị khởi tố, xét xử theo bản án số: 135/2019/HSST, ngày 31-10-2019 của Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La.

[3]. Về vật chứng vụ án: Đã được xử lý tại bản án số: 135/2019/HSST, ngày 31-10-2019 của Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Do vậy không đặt ra vấn đề xem xét giải quyết.

[4]. Về án phí: Bị cáo Lường Văn T phải chị toàn bộ án phí Hình sự sơ thẩm. Vận dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14; ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[5]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật hình sự:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lường Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lường Văn T 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10-10-2019 (là ngày bắt giam giữ đối với bị cáo).

4. Về Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14; Ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Lường Văn T phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo Lường Văn T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

267
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2020/HSST ngày 10/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:05/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về