Bản án 05/2020/HSST ngày 06/02/2020 về tội trộm cắp tài sản

A ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI, TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 05/2020/HSST NGÀY 06/02/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 112/2019/HSST ngày 03 tháng 12 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 104/2019/QĐXXST-HS ngày 24/12/2019, đối với bị cáo:

Lê Văn H, sinh ngày 05/7/1990 tại Quảng Ngãi; Nơi cư trú: Thôn C, xã T, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Ngư dân; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn L và bà Mai Thị Đ; vợ: Nguyễn Thị H, có 02 con, lớn sinh năm 2015, nhỏ sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 21/10/2019 đến ngày 30/10/2019 áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Anh Phạm T; sinh năm 1983; trú tại: Thôn A, xã T, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 8 giờ ngày 19/10/2019, Lê Văn H đang vá lưới và múc nước ghe của ông Lê Văn L (SN: 1962; HKTT: Thôn C, xã T, thành phố Quảng Ngãi cha của H) đang neo đậu tại cảng cá S thuộc xã T, thành phố Quảng Ngãi. Trong thời gian này, H bước qua ghe của anh Phạm T (SN: 1983; HKTT: Thôn A, xã T, thành phố Quảng Ngãi) neo đậu bên cạnh để buộc dây neo. Lúc này, H quan sát ghe anh T không có người trông coi nên H vào bên trong ghe anh T mở tủ gỗ (không khóa) thấy 01 màn hình rada Icom Rada loại 1210 TIII, màu đen nên H lấy kìm (để gần tủ) bấm 03 dây điện gắn trên màn hình Radar ra khỏi tủ rồi mang qua ghe của cha mình cất giấu. Ngày 21/10/2019, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố Quảng Ngãi làm việc với H, H đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản của anh T. Đồng thời, H tự nguyện giao nộp lại tài sản đã trộm cắp.

Tại bản kết luận số: 208/CSĐT ngày 20/11/2019, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Quảng Ngãi xác định màn hình Icom Marine Radar MR – 1210TIII, made in Japan, màu đen (đã qua sử dụng), trị giá:

18.000.000 đồng.

Bản cáo trạng số 101/CT-VKS ngày 28 tháng 11 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi truy tố bị cáo Lê Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi giữ nguyên quyết định truy tố. Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Lê Văn H từ 12 đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

- Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Màn hình Icom Marine Radar MR – 1210TIII, made in Japan, màu đen (đã qua sử dụng) đã trả lại cho chủ sở hữu là anh Phạm T. Anh T không có yêu cầu gì nên không đề cập.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo; bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đều thực hiện đúng luật.

[2] Anh Phạm T bị hại trong vụ án được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt; căn cứ khoản 1 Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử.

[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi truy tố. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố; phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án nên có cơ sở để xác định: Khoảng 08 giờ 00 phút, ngày 19/10/2019 bị cáo đã lén lút vào trong ghe anh T mở tủ gỗ dùng kìm bấm, bấm dây điện lấy 01 màn hình Icom Marine Radar MR – 1210TIII, made in Japan, màu đen của anh Phạm T. Tổng giá trị tài sản bị cáo trộm là 18.000.000 đồng. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lê Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[4] Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của anh T được pháp luật bảo vệ, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo; bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo được hưởng theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng. Do đó, không cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội, mà cho bị cáo hưởng án treo với thời gian thử thách nhất định cũng đủ điều kiện để giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt.

- Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Màn hình Icom Marine Radar MR – 1210TIII, made in Japan, màu đen, đã trả lại cho anh T. Anh T không còn yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xét.

Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi tại phiên tòa về hình phạt, trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Bị cáo Lê Văn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

2. Tuyên bố bị cáo Lê Văn H phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Lê Văn H 09 (Chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo; thời gian thử thách là 18 (Mười tám) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm là ngày 06 tháng 02 năm 2020.

Giao bị cáo Lê Văn H cho Ủy ban nhân dân xã T, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp bị cáo Lê Văn H thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về án phí: Buộc bị cáo Lê Văn H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2020/HSST ngày 06/02/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:05/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Quảng Ngãi - Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về