TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BÀ RỊA, T. BÀ RỊA –VŨNG TÀU
BẢN ÁN 05/2020/HNGĐ-ST NGÀY 28/04/2020 VỀ TRANH CHẤP QUAN HỆ HÔN NHÂN, NUÔI CON CHUNG
Ngày 28 tháng 4 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 498/2019/TLST- HNGĐ ngày 27 tháng 12 năm 2019 về “Tranh chấp quan hệ hôn nhân, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2020/QĐST-HNGĐ ngày 13-3-2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2020/QĐST-HNGĐ ngày 30-3-2020, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Ngọc T, sinh năm: 1986 (có mặt).
Trú tại: Tổ 9, ấp Bắc 3, xã Hòa Long, thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
2. Bị đơn: Ông Đoàn Hoàng N – sinh năm 1984 (vắng mặt).
Trú tại: Tổ 9, ấp Bắc 3, xã Hòa Long, thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
3. Người làm chứng: Bà Hoàng Thị Ngọc P, sinh năm 1984 (vắng mặt) Trú tại: Tổ 2, ấp Bắc 3, xã Hòa Long, thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
NỘI DUNG VỤ ÁN
[1]. Tại đơn khởi kiện ngày 20 tháng 12 năm 2019 và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc T trình bày:
Bà Nguyễn Thị Ngọc T và ông Đoàn Hoàng N chính thức chung sống với nhau từ năm 2006 có đăng ký kết hôn theo quy định tại UBND phường Kim Dinh, thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Ngay từ thời gian đầu chung sống, giữa bà và ông N đã xảy ra nhiều mâu thuẫn nguyên nhân là do ông N làm ăn gây nợ nần, không quan tâm chăm sóc vợ con, có quan hệ bên ngoài với người phụ nữ khác nên vợ chồng thường xảy ra cãi vã, nặng lời làm tổn thương lẫn nhau vì thế cuộc sống không có hạnh phúc. Bà T đã nhiều lần bỏ qua để giữ gìn hạnh phúc gia đình nhưng không có kết quả, ông N không sửa đổi, từ tháng 4/2019 ông N vì nợ nần nên đã bỏ đi trốn nợ, ông N chỉ thỉnh thoảng về thăm con, vợ chồng không còn chung sống cùng nhau. Tình trạng này kéo dài, bà T cảm thấy quá mệt mỏi và không thể chịu đựng được nữa nên bà có yêu cầu được ly hôn với ông N.
Thời gian Tòa án giải quyết vụ án, ông N vì đang trốn nợ nên nhiều lần cố tình không đến Tòa, bà và ông N cũng không gặp nhau, vợ chồng không có ai có thiện chí muốn hàn gắn, tình cảm thực sự không còn nên bà vẫn vẫn yêu cầu được ly hôn với ông N.
Về con chung: Ông N và bà T có 01 con chung là Đoàn Yến N, sinh ngày 15-9-2007. Hiện cháu N đang sống chung với bà T nên bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu N đến tuổi trưởng thành và tự nguyện không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Bà T xác nhận không có tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa, bà T xác định mâu thuẫn đã quá căng thẳng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt nên vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với ông N.
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã nhiều lần T hành triệu tập đến Toà làm việc nhưng ông N vắng mặt không có lý do nên Tòa án không thể thu thập được lời khai của ông N.
Để có cơ sở giải quyết vụ án, Tòa án đã T hành xác minh nơi cư trú của ông N, kết quả Tổ trưởng tổ 9 (nay là tổ 7), ấp Bắc 3, xã Hòa Long, thành phố Bà Rịa và công an xã Hòa Long xác nhận ông Đoàn Hoàng N có đăng ký hộ khẩu thường trú tại: tổ 9, ấp Bắc 3, xã Hòa Long, thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cùng với bà T và con. Đồng thời Tòa án cũng tiến hành lấy lời khai người làm chứng để xác định tình trạng mâu thuẫn giữa ông N và bà T.
[2]. Về ý kiến của người làm chứng bà Hoàng Thị Ngọc P:
Bà Hoàng Thị Ngọc P là bạn và là hàng xóm gần với nơi sinh sống của vợ chồng ông N bà T. Do là hàng xóm nên bà P có biết về mối quan hệ vợ chồng giữa ông N bà T. Theo bà P thì ông N làm nghề lái xe nên thường xuyên vắng nhà, ông N có vay nợ của nhiều người nên thường có người đến nhà đòi nợ. Mặc dù không thấy vợ chồng ông N bà T to tiếng cãi vã lẫn nhau nhưng bà thường nghe bà T tâm sự về sự rạn nứt tình cảm vợ chồng. Bà P cam kết với tư cách là người làm chứng bà đã khai trung thực những gì bà biết về cuộc sống chung giữa ông N bà T.
[4]. Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bà Rịa tham gia phiên tòa:
Qua nghiên cứu, đánh giá các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa dân sự sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát có ý kiến như sau:
Việc tuân theo pháp luật tố tụng:
- Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong thời gian chuẩn bị xét xử, Thẩm phán đã thực hiện đúng, đầy đủ về quan hệ tranh chấp, thẩm quyền và thời hạn xét xử theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 và điểm a khoản 1 Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Thẩm phán xác định tư cách đương sự tham gia tố tụng đúng theo quy định tại Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự. Về xác minh, thu thập chứng cứ, giao nhận chứng cứ đúng theo quy định từ các Điều 93 đến Điều 98 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Đối với hội đồng xét xử tại phiên tòa hôm nay đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng, thư ký đã thực hiện đúng nhiệm vụ tại phiên tòa.
- Nguyên đơn đã chấp hành tốt các quy định tại Điều 71, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự, riêng bị đơn ông N chưa chấp hành mặc dù Tòa án đã triệu tập hợp lệ.
Về nội dung vụ án: Từ các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của đương sự tại phiên tòa cho thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa ông N và bà T đã trầm trọng, vợ chồng đã ly thân không còn sống chung với nhau, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, Hội đồng xét xử đã phân tích động viên nhưng bà T vẫn cương quyết yêu cầu được ly hôn. Do đó, Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử: Chấp nhận đơn yêu cầu khởi kiện của bà T về việc ly hôn với ông N; về con chung: bà T được quyền nuôi dưỡng con chung, ghi nhận sự tự nguyện của bà T về việc không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu; về án phí: bà T phải nộp án phí theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào ý kiến trình bày của đương sự tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng: Bà Nguyễn Thị Ngọc T có đơn xin ly hôn, ông Đoàn Hoàng N có đăng ký hộ khẩu thường trú tại thành phố Bà Rịa nên tranh chấp nói trên được xác định là tranh chấp về ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Ông Đoàn Hoàng N đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt ông N theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2]. Xét về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị Ngọc T và ông Đoàn Hoàng N là hôn nhân tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Quá trình chung sống đã xảy ra nhiều mâu thuẫn nguyên nhân là do ông N không lo làm ăn, gây nợ nần, không có trách nhiệm với vợ con nên vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã, xung đột. Thậm chí ông N còn có mối quan hệ bên ngoài với người phụ nữ khác, bà T đã nhiều lần cố gắng chịu đựng để vợ chồng hàn gắn để chung sống cùng chăm lo nuôi dạy con chung nhưng ông N không sửa đổi dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng ngày càng căng thẳng hơn. Từ tháng 4/2019 đến nay ông N bỏ đi trốn nợ, vợ chồng không còn chung sống, tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt, mỗi người tự lo cuộc sống riêng, không ai quan tâm đến ai. Tòa án cũng đã nhiều lần vận động hòa giải nhưng bà T vẫn kiên quyết yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông N vì theo bà giữa ông bà không còn tình cảm, mâu thuẫn trầm trọng kéo dài từ lâu nên không thể hàn gắn.
Bản thân ông N biết rõ việc bà T yêu cầu ly hôn nhưng không đến Tòa làm việc để trình bày ý kiến về yêu cầu xin ly hôn của bà T mà bỏ mặc, điều đó thể hiện ông N không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng. Căn cứ lời khai của người làm chứng bà Hoàng Thị Ngọc P là hàng xóm với ông N và bà T và ông Nguyễn Minh Hùng – Tổ trưởng tổ 9 (nay là tổ 7), ấp Bắc 3, xã Hòa Long, thành phố Bà Rịa nơi vợ chồng ông N bà T sinh sống cũng xác nhận mâu thuẫn giữa ông N và bà T là có thật, cả hai không còn chung sống cùng nhau. Từ những cơ sở đó, Hội đồng xét xử xét thấy lời khai của bà T là có căn cứ, mâu thuẫn giữa bà T và ông N là có thật và trầm trọng, dẫn tới cuộc sống chung không có hạnh phúc, vợ chồng không còn tình cảm, mục đích hôn nhân không đạt, đời sống chung không thể kéo dài. Vì vậy, cần áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 tuyên xử chấp nhận yêu cầu của bà T về việc ly hôn với ông N.
[3]. Về con chung: Quá trình chung sống bà T và ông N có 01 con chung là Đoàn Yến N, sinh ngày 15-9-2007, hiện cháu đang chung sống với bà T và có N vọng được tiếp tục chung sống với mẹ đến tuổi trưởng thành. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bà T cũng có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Xét thấy, căn cứ theo nguyện vọng của cháu N và để đảm bảo cho cháu có điều kiện sống tốt nhất, cần chấp nhận yêu cầu của bà T được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Đoàn Yến N, sinh ngày 15-9-2007 đến tuổi trưởng thành (18 tuổi). Việc bà T không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con là tự nguyện nên cần công nhận.
[4]. Về tài sản chung, nợ chung: Bà T xác nhận không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5]. Về án phí: Bà T phải nộp án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự:
Áp dụng Điều 56, 57, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:
Áp dụng Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án:
Tuyên xử:
1. Chấp nhận đơn yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Ngọc T.
+ Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Ngọc T được ly hôn với ông Đoàn Hoàng N.
+ Về con chung: Bà Nguyễn Thị Ngọc T và ông Đoàn Hoàng N có 01 con chung là Đoàn Yến N, sinh ngày 15-9-2007. Theo nguyện vọng của cháu N, bà Nguyễn Thị Ngọc T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đoàn Yến N, sinh ngày 15-9-2007 đến tuổi trưởng thành (18 tuổi). Công nhận sự tự nguyện của bà T về việc không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Vì lợi ích của con, khi cần thiết theo yêu cầu của một bên hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi việc nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con.
+ Về tài sản chung, nợ chung: Bà Nguyễn Thị Ngọc T không có yêu cầu nên không giải quyết.
2. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Ngọc T phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số TU/2019/0003192 ngày 27-12-2019 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bà Rịa. Như vậy, bà T đã nộp xong án phí.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 28-4-2020), đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Đương sự vắng mặt thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án 05/2020/HNGĐ-ST ngày 28/04/2020 về tranh chấp quan hệ hôn nhân, nuôi con chung
Số hiệu: | 05/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Bà Rịa - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 28/04/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về