TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 05/2020/HNGĐ-ST NGÀY 07/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 07 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 1095/2020/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 10 năm 2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 408/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 209/2020/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Phan Thị Ánh N, sinh năm 1992. (xin vắng mặt) Địa chỉ: Ấp LT, xã HKT, huyện Đ, tỉnh Long An.
Bị đơn: Trần Trọng T, sinh năm 1990. (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp BL, xã TM, huyện Đ, tỉnh Long An.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 12 tháng 10 năm 2020, nguyên đơn bà Phan Thị Ánh N trình bày: Bà và ông Trần Trọng T chung sống với nhau năm 2014, có đăng kí kết hôn tại UBND xã TM, huyện Đ, tỉnh Long An ngày 09/01/2015. Đến năm 2019, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi vã, sống không hợp nhau. Cuộc sống vợ chồng không mang lại hạnh phúc. Bà và ông T đã ly thân từ tháng 8 năm 2019 cho đến nay, tình nghĩa vợ chồng đã rạn nứt khó mong hàn gắn nên bà xin ly hôn với ông T.
Về con chung: Quá trình chung sống, bà và ông T có con chung tên Trần Công T, sinh ngày 03/7/2015, hiện đang sinh sống với bà. Khi ly hôn, bà yêu cầu nuôi con chung, yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng.
Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về tố tụng:
[1.1]. Bà N khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông T, hiện đang sinh sống tại huyện Đ, tỉnh Long An nên Tòa án nhân dân huyện Đ thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[1.2]. Tại phiên tòa, nguyên đơn bà N có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn ông T đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, căn cứ vào Điều 227; Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.
[1.3]. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý, các văn bản tố tụng cần thiết, đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và các thủ tục theo pháp luật quy định nhưng ông T vẫn vắng mặt, cũng không có văn bản ghi ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Bà N có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải nên đưa vụ án ra xét xử.
[2]. Về quan hệ hôn nhân: Bà N, ông T chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại UBND xã TM, huyện Đ, tỉnh Long An ngày 09/01/2015 nên hôn nhân giữa ông bà là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[3]. Về yêu cầu ly hôn: Trong quá trình chung sống, bà N cho rằng năm 2019, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi vã, sống không hợp nhau. Cuộc sống vợ chồng không mang lại hạnh phúc. Bà và ông T đã ly thân từ tháng 8 năm 2019 cho đến nay, tình nghĩa vợ chồng đã rạn nứt khó mong hàn gắn nên bà xin ly hôn với ông T. Đối với ông T, từ khi thụ lý vụ án cho đến nay, mặc dù đã được tống đạt thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng theo quy định, biết được yêu cầu khởi kiện của bà N nhưng ông T không đến Tòa án và cũng không có ý kiến gì phản hồi đối với yêu cầu khởi kiện của bà N. Tại phiên tòa hôm nay, ông T vẫn vắng mặt, chứng tỏ ông không có thiện chí để hàn gắn. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, đời sống chung không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được, do đó xét yêu cầu ly hôn của bà N đối với ông T là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4]. Về con chung: Quá trình chung sống, bà N và ông T có con chung tên Trần Công T, sinh ngày 03/7/2015, hiện đang sinh sống với bà N. Khi ly hôn, bà N yêu cầu nuôi con chung, yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng. Đối với ông T, dù đã được thông báo về yêu cầu của bà N đối với con chung nhưng ông T không đến Tòa án cũng không có văn bản phản hồi ý kiến gửi Tòa án. Xét thấy, để đảm bảo sự phát triển bình thường của con thấy rằng cần giao con chung cho bà N nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[5]. Về cấp dưỡng nuôi con: Bà N yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng là phù hợp quy định tại Điều 110, Điều 116 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên buộc ông T có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi mỗi tháng 1.000.000 đồng, cho đến khi con đủ 18 tuổi, thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 01 năm 2021.
[6]. Về tài sản chung và nợ chung: Bà N trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ông T không có văn bản phản hồi ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7]. Về án phí: Bà N phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Ông T phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điểm a Khoản 5, Điểm a Khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Áp dụng Điều 9, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 110, Điều 116 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; Điểm a Khoản 5, Điểm a Khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phan Thị Ánh N đối với ông Trần Trọng T về việc “Ly hôn”.
Về quan hệ hôn nhân: Bà Phan Thị Ánh N được ly hôn với ông Trần Trọng T.
2. Về con chung: Buộc ông T có trách nhiệm giao con chung tên Trần Công T, sinh ngày 03/7/2015 cho bà N nuôi dưỡng; Buộc ông T có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi mỗi tháng 1.000.000 đồng, cho đến khi con đủ 18 tuổi, thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 01 năm 2021.
Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Bên không nuôi con được quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Trường hợp bên không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì bên trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định pháp luật. Bên trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được quyền cản trở bên không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.
Khi cần thiết, trên cơ sở lợi ích của con chung thì bên trực tiếp nuôi con, bên không trực tiếp nuôi con, cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
3. Về án phí: Bà N phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0006558 ngày 12/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Long An để thi hành. Bà N đã nộp đủ. Ông T phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con, sung ngân sách nhà nước.
Án xử sơ thẩm, công khai, nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 05/2020/HNGĐ-ST ngày 07/01/2021 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 05/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đức Huệ - Long An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 07/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về