TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH A
BẢN ÁN 05/2019/HNGĐ-ST NGÀY 26/02/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH - LY HÔN
Trong ngày 26 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh A xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 378/2018/TLST-HNGĐ ngày04/12/2018 về việc “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình - ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 25/01/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 04/2019/QĐST-HNGĐ ngày 13/02/2019, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: bà Đặng Thị Kim N, sinh năm 1990 (có mặt).
Địa chỉ: ấp T, xã V, huyện T, tỉnh A.
2. Bị đơn: ông Đào Thanh Tùng E, sinh năm 1989 (vắng mặt).
Địa chỉ: ấp T, xã V, huyện T, tỉnh A.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, tờ tự khai ngày 24/01/2019 và tại phiên tòa nguyên đơn bà Đặng Thị Kim N trình bày:
Bà N với ông T chung sống với nhau vào năm 2011, có tổ chức lễ cưới nhưng không đăng ký kết hôn. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc, sau đó bà N với ông T thường xuyên phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do ông T không lo làm ăn, thường xuyên uống rượu, đánh bạc nên gây ra nợ nần. Bà N vừa phải lo cho gia đình, vừa phải trả nợ cho ông T. Mặc dù bà có khuyên ngăn để ông T lo cho gia đình nhưng ông vẫn không thay đổi, thường xuyên bỏ nhà đi đến khi hết tiền thì quay về yêu cầu bà N đưa tiền, nếu không đưa thì ông T gây chuyện và đánh bà N. Đến năm 2018 thì mâu thuẫn giữa bà với ông T trầm trọng hơn. Do không thể chịu đựng được nữa nên bà N dẫn con về nhà cha mẹ ruột sinh sống từ tháng 10 năm 2018 cho đến nay.
Về quan hệ con chung: bà N với ông T có 01 con chung tên Đào Thị Loan A, sinh ngày 26/4/2013 và hiện đang sống chung với bà N. Bà N yêu cầu được tiếp tục nuôi con, không yêu cầu ông T cấp dưỡng.
Về tài sản chung và nợ chung: không có.
Bị đơn ông Đào Thanh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông đều vắng mặt nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của bị đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: đây là tranh chấp về Hôn nhân và gia đình - ly hôn, theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn ông Đào Thanh T đăng ký hộ khẩu thường trú tại ấp T, xã V, huyện T, tỉnh A, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T theo quy định tại Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ bị đơn ông Đào Thanh T để tham gia phiên tòa. Tuy nhiên, bị đơn đều vắng mặt nên căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.
[3] Xét yêu cầu ly hôn của bà N, thấy rằng: bà N với ông T tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2011, thời gian đầu chung sống hạnh phúc, đến tháng 10 năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn gay gắt nên bà với ông T không còn sống chung cho đến nay. Kể từ khi thụ lý vụ án, Tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông T nhưng ông không đến tham gia các phiên hòa giải, cũng như không có văn bản nào thể hiện nguyện vọng muốn được hàn gắn tình cảm với bà N. Xét thấy, quan hệ hôn nhân giữa bà N với ông T đủ điều kiện kết hôn theo Điều 8 của Luật Hôn nhân và gia đình nhưng đến nay vẫn chưa đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, vì vậy không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng.
Tại khoản 2 Điều 53 quy định: “Trong trường hợp không có đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật này”. Bà N yêu cầu ly hôn với ông T, nhưng do bà N với ông T không có đăng ký kết hôn nên không được pháp luật công nhận là vợ chồng, mà cần tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Đặng Thị Kim N với ông Đào Thanh Tùng E.
[4] Về quan hệ con chung: bà N với ông T có 01 chung tên Đào Thị Loan A, sinh ngày 26/4/2013. Bà N yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu ông T cấp dưỡng. Xét thấy, việc giao con cho ai nuôi cần xem xét quyền lợi về mọi mặt của con chưa thành niên; cháu L đang sống chung với bà N và có cuộc sống ổn định. Do vậy, để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bình thường về thể chất và tinh thần của cháu L, căn cứ vào khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, nên cần chấp nhận yêu cầu của bà N, giao cháu L cho bà N tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Bà N cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông T trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Bà N không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[5] Về tài sản chung: không có.
[6] Về nợ chung: bà N xác định không có nợ chung.
[7] Do bà Đặng Thị Kim N yêu cầu giải quyết ly hôn nên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 53, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 2 Điều 227, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 24 và khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đặng Thị Kim N.
- Về quan hệ hôn nhân: Tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Đặng Thị Kim N với ông Đào Thanh Tùng E.
- Về quan hệ con chung: có 01 chung tên Đào Thị Loan A, sinh ngày26/4/2013.
+ Giao các cháu Đào Thị Loan A cho bà Đặng Thị Kim N tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục (hiện cháu L đang sống chung với bà N).
+ Bà Đặng Thị Kim N cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông Ttrong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Trên cơ sở lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, của cơ quan có thẩm quyền thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.
- Về nợ chung: ghi nhận bà N xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án này có hiệu lực pháp luật, nếu có nguyên đơn khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của bà N và ông Ttrong thời kỳ hôn nhân thì bà Đặng Thị Kim N và ông Đào Thanh T phải liên đới trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.
- Về án phí sơ thẩm: bà Đặng Thị Kim N phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009116 ngày 04/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh A.
Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tạiĐiều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 05/2019/HNGĐ-ST ngày 26/02/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn
Số hiệu: | 05/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Tân Châu - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 26/02/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về