Bản án 05/2019/HNGĐ-ST ngày 25/02/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 05/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/02/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 25 tháng 02 năm 2019, Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 432/2018/TLST- HNGĐ ngày 11 tháng 12 năm 2018 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04B/2019/QĐST- HNGĐ ngày 09 tháng 01 năm 2019 giữa các đương sự:

1- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị C, sinh năm 1983; (có mặt)

ĐKHKTT: Thôn 8, QT, xã XL, huyện LG, BG

Nơi cư trú: Thôn G, xã XH, huyện LG, tỉnh BG

2- Bị đơn: Anh Nguyễn Trường G, sinh năm 1983; (vắng mặt)

Địa chỉ: Thôn 8, Q T, xã XL, huyện LG, BG

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ghi ngày 02/7/2018, bản tự khai và các lời khai tiếp theo nguyên đơn chị Nguyễn Thị C trình bày:

Chị và Nguyễn Trường G đã kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND XL, huyện LG ngày 21/12/2004. Sau khi kết hôn, vợ chồng về chung sống cùng nhau, cuộc sống vợ chồng hòa thuận được khoảng 10 năm, từ năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng thường xảy ra cãi vã, nguyên nhân do anh G thường xuyên uống rượu say và mê tín dị đoan, bói toán, thờ cúng, gây gổ đánh vợ. Vợ chồng mâu thuẫn gay gắt đến tháng 11/2017 thì chị quyết định chuyển về nhà bố, mẹ đẻ ở XHg sinh sống, các con của chị cũng đi theo và ở cùng chị từ đó đến nay. Trong thời gian ly thân, anh G có xuống gặp chị một, hai lần và có mong muốn vợ chồng về đoàn tụ, chị đã nói nếu anh G thay đổi thì sẽ quay về chung sống với anh. Tuy nhiên, đến nay đã hơn một năm nhưng anh G không thay đổi, vẫn tiếp tục uống rượu say, vẫn mê tín dị đoan, không có công việc, thu nhập gì. Chị nhận thấy, hôn nhân của vợ chồng không thể duy trì vì mâu thuẫn gay gắt, kéo dài, tình cảm của chị với anh G không còn, do đó, chị yêu cầu được ly hôn anh G. Anh G mong muốn vợ chồng đoàn tụ, chị không nhất trí.

Về con chung: Vợ chồng chị có hai con chung là Nguyễn Mai Tr, sinh ngày02/11/2005 và Nguyễn Thị Trang Nh, sinh ngày 14/3/2007. Các con hiện đều khỏe mạnh và ở cùng chị tại quê ngoại, học hành tại đó. Các con đều có nguyện vọng ở với mẹ, nên chị đề nghị Tòa án giao cho chị nuôi cả hai con và không yêu cầu anh Gđóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu giải quyết. Công nợ chung: không có.

Bị đơn anh Nguyễn Trường G tại bản tự khai ngày 02/01/2019 và các lời khai tiếp theo trình bày: Anh xác nhận về thời gian, điều kiện kết hôn giữa hai vợ chồng anh như chị C đã khai trên là đúng. Về mâu thuẫn vợ chồng xảy ra là do có những bất đồng trong cuộc sống về tính cách, lối sống. Anh thừa nhận có thường xuyên uống rượu và say xỉn, khi đó do anh không biết gì nên có chửi, mắng vợ con, nhưng anh chưa bao giờ đánh vợ, con. Cũng vì lý do như trên, nên vợ chồng anh mấy năm nay thường xuyên xảy ra cãi vã. Vợ chồng đã sống ly thân hơn một năm nay. Nay anh vẫn còn tình cảm với vợ và mong muốn vợ chồng đoàn tụ, anh không nhất trí ly hôn. Nếu chị C kiên quyết ly hôn thì anh đề nghị Tòa án căn cứ quy định của pháp luật để xem xét. Về con chung: Vợ chồng có hai con chung như chị C đã trình bày. Nếu trong trường hợp vợ chồng ly hôn, anh có nguyện vọng được nuôi cả hai con và không yêu cầu chị C đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung. Nếu các con có nguyện vọng ở cùng mẹ cháu, thì anh nhất trí. Về trách nhiệm với các con anh vẫn sẽ tự có trách nhiệm của mình.

Về tài sản chung, công nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, chị C có mặt vẫn giữ nguyên ý kiến, quan điểm yêu cầu ly hôn.

Anh G vắng mặt.

Đại diện chính quyền địa phương qua xác minh của Tòa án xác nhận anh G, chị C đã mâu thuẫn nhiều năm nay, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm, chị C đã đưa các con về quê ngoại ở từ năm 2017 đến nay, hiện anh G sinh sống tại địa phương nhưng không có công việc, không có nghề nghiệp vì sức khỏe yếu, hộ gia đình anh G, chị C thuộc diện hộ nghèo.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạng Giang tại phiên toà đã phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của thẩm phán, Hội đồng xét xử, của thư ký là đúng quy định của pháp luật. Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án đều đảm bảo thực hiện nghiêm túc, đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình. Đối với bị đơn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do nên đề nghị áp dụng điều 227, 228 để xét xử là đúng pháp luật.

Về nội dung vụ án, kiểm sát viên đã phân tích, đánh giá thực trạng mâu thuẫn của anh G, chị C, xét tình trạng mâu thuẫn đã kéo dài, không thể hòa giải nên đề nghị áp dụng điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình để xử cho chị C, anh G ly hôn.

Về con chung, đề nghị giao cả hai cháu Nguyễn Mai Tr, sinh ngày 02/11/2005 và Nguyễn Thị Trang Nh, sinh ngày 14/3/2007 cho chị C nuôi. Về cấp dưỡng nuôi con không đặt ra xem xét do chị C không yêu cầu anh G phải đóng góp.Về án phí, miễn án phí cho chị C vì thuộc diện hộ nghèo. Về quyền kháng cáo, các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, sau khi thẩm tra các chứng cứ tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử xét thấy:

 [1] Đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị C cùng các tài liệu nộp theo đơn là hợp lệ, đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về hình thức, nội dung đơn khởi kiện. Đây là tranh chấp hôn nhân gia đình, cụ thể là ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo khoản 1 điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang.

 [2].Về thủ tục tố tụng: Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang đã thụ lý, giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục tố tụng dân sự pháp luật đã quy định. Đối với nguyên đơn đã chấp hành nghiêm túc, thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình. Tại phiên tòa, nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt lần thứ hai không có lý do, nên HĐXX căn cứ quy định tại điều 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử.

 [3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị C, anh Nguyễn Trường G đã kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã XL, huyện LG ngày 21/12/2004, nên quan hệ hôn nhân của anh, chị là hợp pháp, được pháp luật bảo vệ.

Về mâu thuẫn vợ chồng: Cả chị Nguyễn Thị C và anh Nguyễn Trường G đều xác nhận trong quá trình chung sống, vợ chồng đã xảy ra mâu thuẫn bất đồng trong nhiều năm, nguyên nhân do tính cách, lối sống khác biệt, do anh G thường xuyên uống rượu say, không kiểm soát được bản thân dẫn đến chửi bới, đánh vợ, con. Tình trạng mâu thuẫn đã kéo dài và từ tháng 11/2017 cho đến nay, chị C đã đưa các con về nhà ngoại, vợ chồng sống ly thân. Xác minh tại chính quyền địa phương cũng cho thấy thực trạng mâu thuẫn trên của anh G và chị C đúng như lời khai của hai bên. Mặc dù anh G có mong muốn đoàn tụ, Tòa án đã tiến hành hòa giải, song chị C vẫn kiên quyết yêu cầu Tòa giải quyết ly hôn. Xét thấy, tình trạng mâu thuẫn của chị C và anh G đã gay gắt, kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, một trong hai bên kiên quyết xin ly hôn, do đó Tòa án căn cứ điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị Nguyễn Thị C và anh Nguyễn Trường G ly hôn.

 [4].Về con chung: Chị Nguyễn Thị C và anh Nguyễn Trường G có hai con chung là Nguyễn Mai Tr, sinh ngày 02/11/2005 và Nguyễn Thị Trang Nh, sinh ngày 14/3/2007, hiện nay đều khỏe mạnh, chị C và anh G đều có nguyện vọng xin được nuôi con, HĐXX xét thấy là nguyện vọng chính đáng. Tuy nhiên xét điều kiện thực tếhiện nay của anh G thì thấy, xác minh tại địa phương cho thấy anh G thường xuyên uống rượu say, nghề nghiệp, thu nhập không ổn định, bản thân anh G cũng thừa nhận điều trên. Các cháu Nguyễn Mai Tr, Nguyễn Thị Trang Nh hiện đều sinh sống ổn định cùng mẹ tại thôn G, XH, LG, có nguyện vọng được ở cùng mẹ, bản thân chị C có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, có khả năng đảm bảo việc chăm sóc, nuôi dưỡng các con, nên HĐXX giao cho chị C nuôi cả hai cháu Nguyễn Mai Tr, sinh ngày 02/11/2005 và Nguyễn Thị Trang Nh, sinh ngày 14/3/2007. Về cấp dưỡng nuôi con, do chị C không yêu cầu nên HĐXX không đặt ra xem xét, giải quyết.

Sau khi ly hôn, anh G có quyền thăm nom con chung và không ai được cản trở anh thực hiện quyền này.

 [5] Về tài sản chung, công nợ chung: Chị C, anh G không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

 [6] Về án phí: Chị C thuộc diện hộ nghèo nên đưỡ miễn án phí dân sự ly hôn sơ thẩm theo quy định tại điều 12 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điều 56, 57, điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 28, điều 35; điều 39; điều 70; điều 71; điều 72; điều 147; điều 227; điều 228; điều 235; điều 271; điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí.

 [1].Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị C và anh Nguyễn Trường G ly hôn.

 [2].Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị C có quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung Nguyễn Mai Tr, sinh ngày 02/11/2005 và Nguyễn Thị Trang Nh, sinh ngày 14/3/2007.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: không đặt ra xem xét, giải quyết.

Sau khi ly hôn, anh G có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở anh thực hiện quyền này.

 [3].Án phí: Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho chị Nguyễn Thị C.

Hoàn trả cho chị C số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số AA/2018/0006838 ngày 11/12/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạng Giang.

 [4]. Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

281
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2019/HNGĐ-ST ngày 25/02/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:05/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về