TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 05/2019/HC-ST NGÀY 31/05/2019 VỀ KHIẾU KIỆN HÀNH VI HÀNH CHÍNH KHÔNG GIAO QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Trong ngày 31 tháng 5 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 81/2017/TLST-HC ngày 07 tháng 8 năm 2017 về “Khiếu kiện hành vi hành chính về việc không giao quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2019/QĐXXST-HC ngày 15 tháng 5 năm 2019, giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Bà Nguyễn Thị Thu B, sinh năm 1956.
Chị Bùi Thị H, sinh năm 1981. Anh Bùi Huy T, sinh năm 1983.
Địa chỉ: đường C, phường B, quận T, thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền:
1. Ông Nguyễn Trung H1, sinh năm 1976.
Địa chỉ: tổ B, khu phố M, phường T3, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. (Có đơn xin vắng mặt)
2. Ông Nguyễn Minh T1, sinh năm 1978.
Địa chỉ: tổ 12, khu phố B, phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. (Có đơn xin vắng mặt)
Văn bản ủy quyền ngày 25/5/2017.
- Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện T.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Lương Thị L – Phó Chủ tịch UBND huyện T. (Có đơn xin vắng mặt)
Văn bản ủy quyền số 3747/UBND-NC ngày 12/4/2019.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện: Ông Bùi Xuân H2 – Chuyên viên phòng Tài Nguyên và Môi trường huyện T. (Có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, người khởi kiện và người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện trình bày:
UBND huyện T1 đã ban hành quyết định số 314/QĐ-UBH ngày 14/01/1995 về việc giao đất cho hộ bà Nguyễn Thị Thu B, nội dung quyết định là giao đất ổn định cho hộ bà B diện tích 8m x 32m = 256m2, lô số A25. Bà B có trách nhiệm đăng ký sử dụng đất tại xã B sử dụng đất đúng mục đích và phải chịu hoàn thành các nghĩa vụ theo quy định, cụ thể: tiền chuyển mục đích sử dụng đất, tiền giá trị vị trí đất, lệ phí địa chính và lệ phí trước bạ.
Ngay sau đó gia đình bà B đã đăng ký sử dụng đất, nộp lệ phí trước bạ, nộp tiền chuyển mục đích sử dụng đất, tiền lệ phí địa chính. Nhưng UBND huyện T1 (cũ) đã không có đất để giao cho bà B, bà B đã khiếu nại nhiều lần nhưng không được giải quyết. Đến nay UBND huyện T vẫn chưa giao đất cho bà.
Vì vậy bà khởi kiện yêu cầu tuyên bố hành vi hành chính về việc không giao quyền sử dụng đất của UBND huyện T là trái pháp luật.
- Tại bản tự khai, người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện trình bày:
Về việc ban hành Quyết định giao đất cho các hộ sử dụng của UBND huyện T1: Ngày 15/7/1994, UBND tỉnh Đồng Nai ban hành quyết định số 1604/QĐ-UBT về việc chấp thuận cho Lâm trường T1 (cũ) chuyển mục đích sử dụng 14.748m2 đất trồng rừng để xây dựng nhà ở cho cán bộ, công nhân tại xã Hố Nai 4 (nay là xã B, huyện T). Vị trí đất nằm trên trục đường Hố Nai đi Trị An. Tại Điều 3 của quyết định ghi rõ tiêu chuẩn mỗi lô là 8m x 32m =256m2, các hộ phải nộp tiền giá trị đất, tiền đền bù đất nông nghiệp, lệ phí trước bạ và lệ phí địa chính.
Năm 1995 xét đề nghị của Lâm trường T1 tại tờ trình số 28/TT ngày 22/9/1994 kèm theo danh sách đề nghị cấp đất thổ cư. UBND huyện T1 đã ban hành quyết định giao quyền sử dụng đất cho các hộ theo bản đồ phân lô được Phòng địa chính huyện T1 lập tại 02 khu đất, với tổng số 151 lô đất và thông báo thu nghĩa vụ tài chính theo giá đất theo quy định.
Ngày 14/01/1995, UBND huyện T1 đã ban hành quyết định số 314/QĐ- UBH về việc giao đất cho hộ ông Bùi Huy C (vợ là Nguyễn Thị Thu B). Ông C đã đóng nghĩa vụ tài chính. Tuy nhiên, vị trí lô đất giao cho ông Bùi Huy C nằm ngoài vị trí khu đất của UBND tỉnh cho phép chuyển mục đích để giao đất cho cán bộ, công nhân viên tại Quyết định số 1604/QĐ-UBT.
Ngày 13/10/2016, UBND tỉnh có văn bản số 9618/UBND-CNN với nội dung không đồng ý bố trí giao 36 lô đất trong khu tái định cư tại thị trấn T cho các trường hợp đã có quyết định giao đất nhưng chưa được cấp đất tại xã B theo đề nghị của UBND huyện vì không phù hợp với Luật đất đai. Yêu cầu UBND huyện T rà soát lại toàn bộ việc xét duyệt, giao đất và thực hiện nghĩa vụ tài chính của từng trường hợp cụ thể và hoàn trả cho các trường hợp đã nộp tiền sử dụng đất nhưng chưa được đất.
Thực hiện công văn của UBND tỉnh, ngày 16/01/2017 Ngân hàng Nông nghiệp huyện đã tính toán số tiền lãi (theo trần lãi suất cao nhất) do Ngân hàng nhà nước quy định tại thời điểm các hộ nộp tiền để hoàn trả cho các hộ đã nộp tiền. Nhưng qua làm việc với các hộ thì các hộ đều không đồng ý với nội dung giải quyết hoàn trả lại số tiền đã đóng và tính lãi từ năm 1995 đến nay cho các hộ.
Do đó UBND huyện đã báo cáo kết quả và tiếp tục xin ý kiến của UBND tỉnh xem xét đối với yêu cầu của người khởi kiện.
- Quan điểm của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện:
Trường hợp hộ gia đình bà Nguyễn Thị Thu B nằm trong 36 trường hợp UBND huyện T đã báo cáo UBND tỉnh Đồng Nai nhưng không được chấp nhận đề xuất giao đất. UBND huyện muốn sớm giải quyết cho các hộ dân do có khiếu nại kéo dài. Nhưng do vị trí lô đất giao cho hộ ông C nằm ngoài vị trí khu đất UBND tỉnh cho phép chuyển mục đích để giao đất cho cán bộ, công nhân viên nên ý kiến của UBND huyện T là đồng ý bồi thường cho hộ ông C số tiền 16.154.200đ, trong đó tiền lãi tính theo trần lãi suất cao nhất do Ngân hàng nhà nước quy định tại thời điểm các hộ nộp tiền năm 1995 là 14.364.000đ và tiền gốc là 1.790.200đ. Do đó với yêu cầu khởi kiện của vợ và con ông C thì UBND huyện T không chấp nhận, đề nghị Tòa án bác yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện.
- Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai:
Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, người tham gia tố tụng là đúng quy định của Luật Tố tụng hành chính. Về thời hạn chuẩn bị xét xử: vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại Điều 130 Luật TTHC.
Về quan điểm giải quyết vụ án:
Đối với Quyết định số 314/QĐ-UBH ngày 14/01/1995 về việc giao quyền sử dụng đất cho hộ ông C là đảm bảo đúng quy định về thẩm quyền, hình thức và nội dung. Bản thân ông C đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài chính theo theo quy định từ năm 1995. Theo quy định của Luật đất đai năm 1993 thì sau khi có quyết định giao đất, người sử dụng đất đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính theo quy định thì UBND huyện T1 (cũ), nay là UBND huyện T phải giao đất cho hộ ông C là đúng. Tuy nhiên UBND huyện T lại cho rằng: vị trí lô đất giao cho ông Bùi Huy C nằm ngoài vị trí khu đất của UBND tỉnh cho phép chuyển mục đích để giao đất cho cán bộ, công nhân viên tại Quyết định số 1604/QĐ-UBT nên không còn đất để giao cho ông C là không có cơ sở chấp nhận.
Từ những nhận định trên, xác định hành vi hành chính của UBND huyện T về việc không giao đất cho hộ ông Bùi Huy C là hành vi trái pháp luật. Yêu cầu khởi kiện của bà B, chị H, anh T (vợ và con của ông C) là có căn cứ, nên chấp nhận. Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai buộc Ủy ban nhân dân huyện T phải thực hiện hành vi về việc giao quyền sử dụng đất cho hộ bà B, chị H, anh T theo Quyết định số 314/QĐ-UBH ngày 14/01/1995 của Ủy ban nhân dân huyện T1 (nay là huyện T).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Ông Nguyễn Trung H1, ông Nguyễn Minh T1 là người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện, bà Lương Thị Lan là người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 157, 158 Luật Tố tụng hành chính, tiến hành xét xử vắng mặt những người nêu trên.
[2] Về quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết:
Bà Nguyễn Thị Thu B, chị Bùi Thị H, anh Bùi Huy T khởi kiện hành vi không giao quyền sử dụng đất của UBND huyện T, nên quan hệ tranh chấp được xác định là “Khiếu kiện hành vi hành chính về việc giao đất” được quy định tại các điều 3, 30, 115 của Luật Tố tụng hành chính.
Đối tượng khởi kiện là hành vi hành chính được thực hiện bởi UBND huyện T, nên thủ tục giải quyết sơ thẩm thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, theo quy định tại khoản 4 Điều 32 Luật Tố tụng hành chính.
[3] Về đánh giá tính hợp pháp của hành vi hành chính bị khởi kiện: [3.1] Về thầm quyền giao quyền sử dụng đất:
Tại Quyết định số 314/QĐ-UBH của UBND T1 (cũ) có nội dung “Nay giao quyền sử dụng đất ổn định cho ông, bà: Bùi Huy C diện tích 8m x 32m = 256m2, số lô A25”. Như vậy, UBND huyện T1 (cũ), nay là UBND huyện T có thẩm quyền giao quyền sử dụng đất cho ông Bùi Huy C là đúng quy định tại Điều 23, 55 Luật đất đai năm 1993.
[3.2] Về diễn biến và hành vi hành chính không giao đất cho hộ ông Bùi Huy C (bà Nguyễn Thị Thu B, chị Bùi Thị H, anh Bùi Huy T):
Ngày 15/7/1994 Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai ban hành Quyết định số 1604/QĐ-UBT về việc chấp thuận cho Lâm trường T1 (cũ) chuyển mục đích sử dụng 14.748m2 đất trồng rừng để xây dựng nhà ở cho cán bộ, công nhân tại xã Hố Nai 4 (nay là xã B, huyện T); vị trí đất nằm trên trục đường Hố Nai đi Trị An (đường 767). Tại Điều 3 của Quyết định ghi rõ tiêu chuẩn mỗi lô là 8m x 32m = 256m2 các hộ phải nộp tiền giá trị đất 2.000đ/m2 tiền đền bù đất nông nghiệp là 2kg lúa/m2, nộp lệ phí trước bạ và lệ phí địa chính.
Ủy ban nhân dân huyện T1 đã ban hành Quyết định giao quyền sử dụng đất cho các hộ dân, theo bản đồ phân lô, được Phòng địa chính huyện T1 lập tại 02 khu đất, với tổng số 151 lô đất; thông báo thu nghĩa vụ tài chính giá đất theo quy định. Ngày 14/01/1995, UBND huyện T1 ban hành Quyết định số 314/QĐ-UBH về việc giao cho hộ ông Bùi Huy C lô A25, diện tích 8m x 32m = 256m2, đồng thời yêu cầu ông C có trách nhiệm đăng ký sử dụng đất tại xã B, sử dụng đất đúng mục đích và phải hoàn thành các nghĩa vụ tài chính. Ông C đã thực hiện nghĩa vụ tài chính gồm: Tiền giá trị đất, tiền lệ phí trước bạ, tiền lệ phí địa chính và biên lai thu khác với tổng số tiền 1.790.200đ. Tuy nhiên, UBND huyện T1 nay là UBND huyện T lại không tiến hành giao đất cho hộ ông C.
[3.3] Tính hợp pháp của hành vi không giao đất của UBND huyện T:
UBND huyện T1 (cũ) ban hành Quyết định số 314/QĐ-UBH ngày 14/01/1995 về việc giao quyền sử dụng đất cho hộ ông C. Sau khi ông C thực hiện các nghĩa vụ tài chính theo Quyết định thì UBND huyện T1 (cũ), nay là UBND huyện T phải giao đất cho hộ ông C mới đúng quy định tại khoản 1 Điều 55 Luật đất đai năm 1993.
UBND huyện T cho rằng, vị trí lô đất giao cho ông Bùi Huy C nằm ngoài vị trí khu đất của UBND tỉnh cho phép chuyển mục đích để giao đất cho cán bộ, công nhân viên tại Quyết định số 1604/QĐ-UBT nên không còn đất để giao cho ông C và chỉ đồng ý bồi thường cho hộ ông C số tiền 16.154.200đ, trong đó tiền lãi tính theo trần lãi suất cao nhất do Ngân hàng nhà nước quy định tại thời điểm các hộ nộp tiền năm 1995 là 14.364.000đ và tiền gốc là 1.790.200đ là không có cơ sở.
Từ những nhận định trên, xác định hành vi hành chính của UBND huyện T về việc không giao đất cho hộ ông Bùi Huy C là trái pháp luật. Ông Bùi Huy C chết ngày 26/3/2015, cha mẹ ông C là ông Bùi Huy H3 chết năm 1975 và bà Lê Thị S chết năm 1978. Những người sống chung trong hộ ông C là bà Nguyễn Thị Thu B, chị Bùi Thị H, anh Bùi Huy T là vợ và con của ông C khởi kiện yêu cầu UBND huyện T giao quyền sử dụng đất cho hộ bà là có căn cứ, nên chấp nhận.
[4] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của bà B, chị H, anh T được chấp nhận nên người bị kiện UBND huyện T phải chịu án phí hành chính sơ thẩm theo luật định.
[5] Đối với phần trình bày của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai phù hợp với nhận định nêu trên của Tòa án nên được chấp nhận.
[6] Đối với phần trình bày của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện không phù hợp với nhận định nêu trên của Tòa án nên không được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 3, Điều 30, Điều 32, Điều 115, khoản 1 Điều 157, khoản 1 Điều 158, Điều 191, Điều 193, khoản 1 Điều 206, Điều 348 Luật Tố tụng hành chính.
Áp dụng khoản Điều 23, Điều 55 Luật đất đai năm 1993; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của ủy ban thường vụ quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Thu B, chị Bùi Thị H, anh Bùi Huy T.
Tuyên bố hành vi hành chính của Ủy ban nhân huyện T (Ủy ban nhân dân huyện T1 cũ) về việc không giao đất cho hộ bà Nguyễn Thị Thu B, chị Bùi Thị H, anh Bùi Huy T theo Quyết định số 314/QĐ-UBH ngày 14/01/1995 của Ủy ban nhân dân huyện T1 (nay là Ủy ban nhân dân huyện T) là trái pháp luật.
Buộc ủy ban nhân dân huyện T chấm dứt hành vi hành chính trái pháp luật.
2. Về án phí: Ủy ban nhân dân huyện T phải chịu 300.000 đồng án phí hành chính sơ thẩm.
Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị Thu B, chị Bùi Thị H, anh Bùi Huy T 300.000đ tạm ứng án phí hành chính sơ thẩm đã nộp theo biên lai thu số 001048 ngày 02/8/2017 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai.
3. Đương sự được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ theo quy định.
Bản án 05/2019/HC-ST ngày 31/05/2019 về khiếu kiện hành vi hành chính không giao quyền sử dụng đất
Số hiệu: | 05/2019/HC-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 31/05/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về