Bản án 05/2018/HS-ST ngày 02/02/2018 về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KINH MÔN, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 05/2018/HS-ST NGÀY 02/02/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP VŨ KHÍ QUÂN DỤNG

Ngày 02 tháng 02 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 06/2018/TLST-HS ngày 17 tháng 01 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2018/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo:

Vũ Anh D, sinh năm 1995

Nơi cư trú: Thôn Y, xã T, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Đức A và bà Nguyễn Thị M; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam ngày 12/10/2017 hiện tạm giam tại Trại tạm giam K - Công an tỉnh Hải Dương; có mặt.

- Người làm chứng:

+ Anh Trương Quốc C, sinh năm 1983

Nơi ĐKHKTT: Số nhà 73 đường Lê Văn H, quận H, Thành phố Hà Nội; nơi ở hiện nay: Khu V, thị trấn P, huyện K, tỉnh Hải Dương; vắng mặt.

+ Anh Trần Bảo N, sinh năm 1985

Nơi cư trú: Khu D, phường M, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 06/10/2017, Vũ Anh D cùng anh Trương Quốc C, anh Trần Bảo N, anh Trần Tùng Q, sinh năm 1996, trú tại: xã T, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh, anh Phùng Văn H, sinh năm 1968, trú tại: xã N, huyện T, tỉnh Hải Dương và một số đối tượng khác (cùng làm tại bãi than của anh C) đến quán karaoke Vincom ở xã H, huyện K, tỉnh Hải Dương thuê phòng 308 để hát. Trong lúc cả nhóm đang hát, D cùng anh N sử dụng xe ô tô chở một người trong nhóm về trước. Khoảng 20 giờ 40 phút cùng ngày, anh C đi xuống tầng 01 của quán thì gặp anh Phạm Minh T, sinh năm 1990, trú tại: Khu B, thị trấn M, huyện K (là nhân viên của quán karaoke). Tại đây, anh C và anh T mâu thuẫn, cãi nhau. Thấy vậy, anh Nguyễn Ngọc L, sinh năm 1989, trú tại: Phường C, thành phố P, tỉnh Quảng Ninh và anh Trần Văn V, sinh năm 1989, trú tại: Khu B, thị trấn M, huyện K (là bạn của anh T) vào can ngăn. Anh C đánh nhau với anh T, L và V tại cửa quán rồi bỏ chạy ra khu vực cây xăng gần đó gọi điện cho anh N thông báo việc bị nhóm của anh T đánh. Anh N nghe vậy, điều khiển xe ô tô chở D quay lại quán karaoke và cùng với anh Q và anh H đánh nhau với nhóm của anh T, V, L. Sau đó, D gọi điện cho anh C, biết anh C đang ở cây xăng, D điều khiển xe ô tô ra đón anh C. Tại đây, D gặp C đang đứng cùng một thanh niên không rõ tên, tuổi, địa chỉ. D bảo C là em về bãi than một tí, rồi điều khiển xe ô tô chở C và người thanh niên lạ mặt đi về bãi than của C ở khu V, thị trấn P, huyện K. D vào phòng ở của mình mở tủ quần áo lấy 01 khẩu súng dài 46cm, bên trong chứa 01 viên đạn kí hiệu HL12DX cho vào túi nilon màu đen rồi cất giấu trong người đi ra ngồi ghế sau của xe ô tô cùng C để người thanh niên lạ mặt lái xe ô tô quay lại quán kraoke Vincom (anh C và người thanh niên lạ mặt không biết D mang súng trong người). Khoảng 21 giờ cùng ngày, khi D cầm theo khẩu súng và đạn trong người cùng C đi vào phòng 202 quán karaoke Vincom thì bị tổ công tác của Công an huyện Kinh Môn kiểm tra, phát hiện thu giữ của D một khẩu súng và một viên đạn có đặc điểm nêu trên.

Tại bản kết luận giám định số 5062/C54(P3) ngày 07/10/2017, Viện khoa học hình sự - Tổng cục cảnh sát - Bộ công an kết luận: Khẩu súng thu giữ của Vũ Anh D là súng săn cỡ 12 nhưng đã bị cắt ngắn nòng và báng, có tính năng tác dụng tương tự vũ khí quân dụng, thuộc vũ khí quân dụng. Viên đạn thu giữ của Vũ Anh D là đạn ghém cỡ 12, không phải vũ khí quân dụng.

Tại Cáo trạng số 08/VKS-HS ngày 16/01/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kinh Môn truy tố bị cáo Vũ Anh D về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” theo khoản 1 Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa:

Bị cáo khai nhận hành vi như đã nêu trên và đề nghị Hội đồng xet xử giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kinh Môn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Vũ Anh D phạm tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”. Áp dụng khoản 1 Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 12/10/2017. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu khẩu súng và viên đạn của bị cáo Vũ

Anh D giao cho Ban chỉ huy quân sự huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương xử lý hủy bỏ theo thẩm quyền. Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Cơ quan điều tra Công an huyện Kinh Môn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kinh Môn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai trong quá trình điều tra, truy tố, phù hợp nội dung biên bản vụ việc do Công an huyện Kinh Môn lập hồi 21 giờ 30 phút ngày 06/10/2017, phù hợp lời khai người làm, vật chứng đã thu giữ, nội dung kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 21 giờ  ngày 06/10/2017, tại quán karaoke Vincom thuộc xã H, huyện K, tỉnh Hải Dương, Vũ Anh D có hành vi cất giữ trái phép 01 khẩu súng săn cỡ 12 đã cắt nòng và báng có tính năng tác dụng tương tự vũ khí quân dụng, thuộc vũ khí quân dụng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước đối với vũ khí quân dụng, gây mất trật tự an ninh trên địa bàn. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ việc tàng trữ vũ khí quân dụng bị pháp luật cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”. Viện kiểm sát nhân dân huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương truy tố đối với bị cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 1999 là có căn cứ. Tuy nhiên, tại thời điểm xét xử Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đã có hiệu lực pháp luật, tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” quy định tại khoản 1 Điều 304 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định tương tự như quy định tại khoản 1 Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 1999. Do vậy, Hội đồng xét xử sẽ áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 304 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để xét xử đối với bị cáo.

[3]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận tội nên được hưởng một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4]. Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, nhân thân tốt.

[5]. Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để trừng trị, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Xét tính chất hành vi bị cáo thực hiện và điều kiện kinh tế của bị cáo, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6]. Về vật chứng: Khẩu súng và viên đạn ghém thu giữ của bị cáo là vật nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu giao cho Ban chỉ huy quân sự huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương xử lý hủy bỏ theo thẩm quyền quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[7]. Hành vi đánh nhau của Trương Quốc C, Trần Bảo N, Vũ Anh D, Trần Tùng Q, Phùng Văn H, Nguyễn Ngọc L, Phạm Minh T và Trần Văn V chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự, Công an huyện Kinh Môn đã xử phạt vi phạm hành chính đối với các đối tượng trên nên không đặt ra xem xét.

[8]. Về án phí: Bị cáo bị kết tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định  tại  khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố bị cáo Vũ Anh D phạm tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”

[2] Áp dụng khoản 1 Điều 304, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Vũ Anh D 13 (mười ba tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 12/10/2017.

[3] Về xử lý vật chứng:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu 01 khẩu súng và 01 viên đạn ghém của bị cáo Vũ Anh D giao cho Ban chỉ huy quân sự huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương xử lý hủy bỏ theo thẩm quyền (toàn bộ vật chứng hiện do Ban chỉ huy quân sự huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương quản lý theo biên bản giao nhận ngày 10/10/2017 giữa Công an huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương và Ban chỉ huy quân sự huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương).

[4] Về án phí:

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Vũ Anh D phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

774
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2018/HS-ST ngày 02/02/2018 về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng

Số hiệu:05/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Kinh Môn - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:02/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về