Bản án 05/2018/HNGĐ-ST ngày 06/02/2018 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CON CUÔNG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 05/2018/HNGĐ-ST NGÀY 06/02/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 06 tháng 0 2  năm 201 8  tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án thụ lý số: 58/2017/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 11 năm 2017 về ly hôn, tranh chấp nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2018/QĐXX-ST ngày 05/01/2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: chị Lô Thị M - sinh năm 1990 – Có mặt

2. Bị đơn: anh Vi Văn N – sinh năm 1987 – Vắng mặt.

Đều có địa chỉ tại: bản X, xã Đ, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện (đơn xin ly hôn) ngày 25/9/2017, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, nguyên đơn chị Lô Thị M trình bày:

Giữa chị và bị đơn anh Vi Văn N kết hôn với nhau vào ngày 14/3/2008 tại UBND xã Đ, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An, Việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện, không có sự ép buộc. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc. Đến năm 2010 thì phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên cãi cọ chửi bới xúc phạm lẫn nhau, đã nhiều lần anh N đánh đập chị và bỏ cả vợ con đi ngoại tình. Nguyên nhân là do anh N nghiện ma túy và ngày càng dẫn sâu vào con đường nghiện ngập. Việc mâu thuẫn của vợ chồng chị đã được hai bên gia đình nội ngoại và chính quyền địa phương hòa giải nhiều lần, nhưng sau mỗi lần hòa giải tình cảm vẫn không được cải thiện mà ngày càng trầm trọng, hiện nay vợ chồng không còn sống chung với nhau. Chị thấy tình cảm vợ chồng không còn, nên yêu cầu Toà án giải quyết cho chị ly hôn với anh Vi Văn N.

- Về con chung: quá trình chung sống vợ chồng chị có một người con chung tên là Vi Thị Yến N, sinh ngày 01/5/2007 hiện cháu đang sống cùng với chị tại bản X, xã Đ, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An. Nếu ly hôn, chị có nguyện vọng được nuôi con và không yêu cầu anh N cấp dưỡng tiền nuôi con.

- Về tài sản chung: chị và anh Vi Văn N thỏa thuận tự chia không yêu cầu tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: không có.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, anh N vắng mặc mặc dầu đã được Tòa án triệu tập nhiều lần và không có ý kiến gì.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 17/11/2017 cháu Vi Thị Yến N có nguyện vọng được sống với mẹ là chị Lô Thị M.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Con Cuông phát biểu ý kiến theo quy định tại Điều 262 Bộ luật tố tụng dân sự như sau:

- Về tố tụng:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử: quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: nguyên đơn chấp hành đúng quy định của pháp luật, bị đơn chưa chấp hành đúng các quy định tại điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị Hôi đồng xét xử áp dụng Điều 28, 35, 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014: xử cho chị Lô Thị M được ly hôn với anh Vi Văn N; về con: giao con chung là cháu Vi Thị Yến N cho chị Lô Thị M trực tiếp nuôi dưỡng cho đến kho cháu Nhi trưởng thành, tạm hoãn việc cấp dưỡng cho anh Vi Văn N; về tài sản: chị M và anh N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét; về án phí: chị M phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Đây là vụ án hôn nhân gia đình về tranh chấp ly hôn; bị đơn hiện cư trú tại huyện Con Cuông nên Tòa án nhân dân huyện Con Cuông thụ lý giải quyết là đúng với quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa lần thứ nhất ngày 22/01/2018 bị đơn đã được tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng vắng măt nên Hội đồng xét xử đã ra Quyết định hoãn phiên tòa. Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn đã được Tòa án niêm yết Quyết định hoãn phiên tòa hợp lệ nhưng vẫn tiếp tục vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định đưa vụ án ra xét xử vắng mặt anh N là phù hợp với quy định tại Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguyên đơn và bị đơn có tranh chấp về người trực tiếp nuôi con chưa thành niên sau khi ly hôn nên theo quy định, Tòa án xác minh nguyên nhân phát sinh tranh chấp tại UBND xã Đ, huyện Con Cuông là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 208 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung: xét chị Lô Thị M và anh Vi Văn N đăng ký kết hôn ngày 14/3/2008 tại UBND xã Đ, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An. Việc kết hôn là tự nguyện, không có sự ép buộc, không vi phạm các quy định về điều kiện và thủ tục kết hôn tại điều 8, điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Như vậy hôn nhân hợp pháp.

Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc. Đến năm 2010 thì phát sinh mâu thuẫn do anh N nghiện ma túy và ngày càng dẫn sâu vào con đường nghiện ngập. Từ năm 2011 vợ chồng không còn sống chung với nhau nữa. Như vậy, chị M và anh N đã vi phạm quy định về tình nghĩa vợ chồng, không sống chung với nhau mà không có lý do chính đáng.

Anh N vắng mặt không có ý kiến trình bày nhưng qua xác minh tại địa phương cho thấy giữa vợ chồng chị M và anh N thường xuyên cãi cọ chửi bới xúc phạm lẫn nhau, đã nhiều lần anh N đánh đập chị, vì vậy mà vợ chồng không còn sống chung với nhau, anh N về sống với bố mẹ đẻ.

Xét thấy, giữa chị M và anh N mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì thế cần cần áp dụng Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình 2014, xử cho chị Lô Thị M được ly hôn với anh Vi Văn N.

Về con chung: chị M và anh N có một người con chung tên là Vi Thị Yến N, sinh ngày 01/5/2007. Hiện nay cháu Nhi đang sống với chị M. Tại phiên tòa chị M vẫn giữ nguyên yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con. Như vậy nguyện vọng của chị M là chính đáng, thể hiện tinh thần và trách nhiệm của người mẹ dành cho con và cũng phù hợp với nguyện vọng của con. Mặt khác qua xác minh tại UBND xã Đ thấy rằng: anh Nhát là đối tượng nghiện ma túy, không có việc làm ổn định, nên việc nuôi con là không đảm bảo điều kiện về mọi mặt cho con. Như vậy Hồi đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận giao con chung là cháu Vi Thị Yến N cho chị M trược tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu Nhi trưởng thành, tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh Vi Văn N.

Về tài sản chung: do các đương sự đã tự thỏa thuận với nhau và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: chị Lô Thị M phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51, 53, 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, Điều 207, 227, 228 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự

Xử:

- Về quan hệ hôn nhân: chấp nhận cho chị Lô Thị M được ly hôn anh Vi Văn N;

- Về con chung: giao con chung Vi Thị Yến N, sinh ngày 01/5/2007 cho chị Lô Thị M trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu Nhi tròn 18 tuổi, trưởng thành. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh Vi Văn N.

Anh N có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Nếu anh N lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con. 

Chị M cùng các thành viên gia đình không được cản trở anh N trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

- Về án phí: áp dụng khoản 4 điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc chị Lô Thị M phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị M đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự  huyện  Con  Cuông,  tỉnh  Nghệ  An  theo  biên  lai  thu  tiền  số  0003375  ngày 01/11/2017.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

408
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2018/HNGĐ-ST ngày 06/02/2018 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:05/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Con Cuông - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về