TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH
BẢN ÁN 05/2018/DS-ST NGÀY 15/08/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 15 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Ninh Bình, tinh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 50/2018/TLST-DS ngày 09 tháng 02 năm 2018 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 7 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 07/2018/QĐST- DS ngày 02 tháng 8 năm 2018 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1970
Ông Đỗ Duy B, sinh năm 1965
Cùng địa chỉ: Số nhà xxx, đường THĐ, phố TV, phường TT, Thành phố NB, tỉnh Ninh Bình.
(Ông B ủy quyền cho bà H theo giấy ủy quyền ngày 30/01/2018)
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Quốc K, sinh năm 1974
Địa chỉ: Số nhà xxx, đường LNT, phố AL, phường NP, thành phố NB, tỉnh Ninh Bình.
Tại phiên tòa Bà H có mặt, Ông K vắng mặt không có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thu H trình bày:
Vợ chồng tôi và ông Nguyễn Quốc K có mối quan hệ quen biết nhau nên khi Ông K đặt vấn đề vay số tiền tôi để làm ăn 200.000.000đ (hai trăm triệu đồng), vợ chồng tôi đồng ý. Ngày 17/02/2015 Ông K có viết giấy vay số tiền trên và hẹn đến tháng 7 năm 2015 sẽ trả toàn bộ số tiền trên. Tuy nhiên từ đó đến nay Ông K không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho vợ chồng tôi. Tôi đề nghị Tòa buộc Ông K phải thanh toán số tiền vay gốc vào ngày 17/02/2015 là 200.000.000đ (Hai trăm triệu đồng) và thanh toán cho tôi toàn bộ tiền lãi xuất của khoản tiền vay trên từ thời điểm ngày 17/02/2015 cho đến khi giải quyết xong vụ án, lãi xuất tôi yêu cầu Ông K phải trả cho tôi tính chung là 9,0% /năm (tổng thời gian vay tính đến ngày 07/6/2018 là 3 năm 3 tháng = 39 tháng), như vậy mỗi tháng anh Khiêm phải trả cho tôi số tiền lãi là1.800.000đ. Tính tương đương thời gian vay 39 tháng x 1.800.000đ = 70.200.000đ. Như vậy, tiền tổng số tiền gốc và lãi đến ngày 7/6/2018 buộc anh Khiêm phải trả cho tôi là 270.200.000đ (Hai trăm bảy mươi triệu, hai trăm nghìn đồng ), trong đó nợ tiền gốc là 200.000.000đ; nợ tiền lãi là 70.200.000đ.
Tại bản tự khai, biên bản hòa giải ông Nguyễn Quốc K trình bày:
Do mối quan hệ quen biết giữa gia đình tôi và gia đình Bà H, nên ngày 7/02/2015 tôi có vay của chị Hiền số tiền 200.000.000 đồng để đầu tư làm ăn. Khi vay hai bên viết giấy vay tiền và hẹn đến tháng 7/2015. Do công việc làm ăn gặp nhiều khó khăn nên tôi không trả cho Bà H số tiền nêu trên được. Nay tôi xin Bà H cho tôi thời gian tôi sẽ trả cho Bà H toàn bộ số tiền trên.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành hòa giải, hai bên đã thống nhất thỏa thuận được việc giải quyết toàn bộ vụ án với nội dung: Tính đến ngày 07/6/2018 ông Nguyễn Quốc K còn nợ bà Nguyễn Thị Thu H và ông Đỗ Duy B tổng số tiền gốc và lãi là 270.200.000đ (Hai trăm bảy mươi triệu, hai trăm nghìn đồng). Thời hạn trả nợ như sau: Ngày 10/9/2018 ông Nguyễn Quốc K phải trả cho chị Nguyễn Thị Thu H toàn bộ số tiền nợ gốc và lãi là 270.200.000đ (Hai trăm bảy mươi triệu, hai trăm nghìn đồng), trong đó nợ gốc là 200.000.000đồng (Hai trăm triệu đồng), nợ lãi là 70.200.000đ (Bẩy mươi triệu, hai trăm nghìn đồng). Tuy nhiên trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành, ông Nguyễn Quốc K có ý kiến không nhất trí với biên bản hòa giải thành ngày 7/6/2018, lý do gia đình làm ăn thua lỗ đang phải vay tiền Ngân hàng nên không có khả năng trả nợ cho Bà H.
Tại phiên tòa hôm nay, bà Nguyễn Thị Thu H vẫn giữ nguyên quan điểm khởi kiện và đề nghị Hội đồng xét xử buộc ông Nguyễn Quốc K phải trả cho bà toàn bộ số tiền gốc 200.000.000đ. Về lãi xuất khi vay hai bên thỏa thuận bằng miệng, lãi xuất cụ thể Bà H không nhớ, đến nay Ông K chưa trả cho bà đồng lãi nào. Nên bà đề nghị Tòa án buộc Ông K phải trả cho bà số tiền lãi tính từ ngày Ông K chậm trả được nợ cho bà như đã cam kết, trong giấy viết vay nợ, không viết ngày nào của tháng 7 Ông K phải trả nợ cho bà nên Bà H tính thời gian chậm trả là từ ngày 01/8/2015 đến ngày 15/8/2018 (ngày xét xử sơ thẩm), theo mức lãi suất do Ngân hàng nhà nước Việt Nam quy định là 9,0%/năm; Cụ thể: Từ ngày 01/8/2015 đến ngày 15/8/2018 là 36 tháng 15 ngày x 9,0%/năm x 200.000.000đ = 54.750.000đ (Năm mươi tư triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng).
Tổng số tiền Bà H buộc Ông K phải trả cả gốc và lãi là: 254.750.000đ (Hai trăm năm mươi tư triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng).
Ông Nguyễn Quốc K vắng mặt tại phiên tòa không có lý do và cũng không có ý kiến nêu quan điểm đề nghị giải quyết yêu cầu khởi khiện của Bà H.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: - Ông Nguyễn Quốc K là bị đơn trong vụ án vay tiền của vợ chồng bà Nguyễn Thị Thu H, ông Đỗ Duy B, nay có tranh chấp. Bị đơn trong vụ án có nơi cư trú tại số nhà 342, đường Lý Nhân Tông, phố An Lạc, phường Ninh Phong, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Đây là quan hệ tranh chấp dân sự “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo quy định tại khoản 3, Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự và tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Ông Nguyễn Quốc K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.
[2] Về nội dung: Theo quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015, giao dịch dân sự giữa Bà H và Ông K phát sinh trước ngày 01/01/2017 nên quan hệ pháp luật về nội dung của vụ án được điều chỉnh bởi các quy định của Bộ luật dân sự năm 2005.
Đối với giấy vay tiền đề ngày 17/2/2015 do người vay là ông Nguyễn Quốc K ký là hoàn toàn tự nguyện, hợp pháp và được pháp luật bảo vệ. Do vậy, Bà H, Ông B khởi kiện yêu cầu Ông K phải trả cho ông bà toàn bộ số tiền gốc là 200.000.000 đồng. Ông Nguyễn Quốc K thừa nhận có nợ Bà H số tiền gốc: 200.000.000 đồng từ ngày 17/2/2015, hẹn đến tháng 7 năm 2015 trả, nhưng cho đến nay Ông K chưa trả cho được đồng nào. Tại phiên hòa giải 7/6/2018 Ông K và Bà H đã thống nhất thỏa thuận thời hạn trả nợ và tính lãi theo mức lãi suất ngân hàng nhà nước Việt Nam quy định là 9,0%/năm. Tuy nhiên, ngày 13/6/2018 Ông K có đơn không nhất trí với biên bản hòa giải thành, ông cho rằng thực tế gia đình ông đang làm ăn thua lỗ, phải vay Ngân hàng nên không có khả năng trả nợ cho Bà H, ông đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật. Xét thấy Ông K đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo thỏa thuận, việc ông không nhất trí với biên bản hòa giải thành và không đến tham gia phiên tòa chỉ làm kéo dài thời gian giải quyết vụ án. Do vậy, yêu cầu khởi kiện của Bà H và Ông B là có căn cứ chấp nhận. Buộc Ông K phải trả cho Bà H, Ông B số tiền nợ gốc 200.000.000đ (Hai trăm triệu đồng).
Về lãi suất, theo cung cấp của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam – Chi nhánh tỉnh Ninh Bình ngày 31/7/2018 về mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam theo Quyết định số 2868/QĐ-NHNN ngày 29 tháng 11 năm 2010 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, có hiệu lực thi hành ngày 01/12/2010 thì mức lãi sất cơ bản bằng đồng Việt Nam là 9,0%/năm. Do đó, Bà H đề nghị Ông K phải trả cho bà tiền lãi tính theo mức lãi suất 9,0%/năm và thời gian tính lãi từ thời hạn chậm trả đối với số tiền 200.000.000 đồng, cụ thể: Từ ngày 01/8/2015 đến ngày 15/8/2018 là 36 tháng 15 ngày x 9,0%/năm x 200.000.000đ = 54.750.000đ (Năm mươi tư triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng) là phù hợp với quy đinh tại Điều 474 Bộ luật dân sự năm 2005, nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận.
Như vậy, tổng số tiền gốc và lãi Ông K phải trả cho Bà H và Ông B là: 254.750.000đ (Hai trăm năm mươi tư triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng).
[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu của Bà H, Ông B được chấp nhận nên buộc Ông K phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch. Cụ thể: 254.750.000đ x 5% = 12.737.500đ (Mười hai triệu, bảy trăm ba mươi bảy nghìn năm trăm đồng).
Trả lại tiền tạm ứng án phí cho Bà H.
Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Khoản 3, Điều 26; điểm a, khoản 1, Điều 35; điểm a, khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 266 và khoản 1, Điều 273 Bộ Luật tố tụng Dân sự;
Căn cứ điểm c, khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 471, 474, 476 và Điều 478 Bộ luật dân sự năm 2005.
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Thu H và ông Đỗ Duy B.
Buộc ông Nguyễn Quốc K phải trả cho bà Nguyễn Thị Thu H và ông Đỗ Duy B tổng số tiền là: 254.750.000đ (Hai trăm năm mươi tư triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng). Trong đó, tiền nợ gốc là: 200.000.000đ (Hai trăm triệu đồng); Tiền nợ lãi là: 54.750.000đ (Năm mươi tư triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng).
Kể từ ngày bà Nguyễn Thị Thu H và ông Đỗ Duy B có đơn yêu cầu thi hành án, mà ông Nguyễn Quốc K không chịu thi hành án khoản tiền nói trên thì hàng tháng Ông K còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chưa thi hành án, lãi suất phát sinh do chậm trả được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại Khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc ông Nguyễn Quốc K phải nộp: 12.737.500đ (Mười hai triệu, bảy trăm ba mươi bảy nghìn năm trăm đồng).
Trả lại cho bà Nguyễn Thị Thu H số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng) tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0000904 ngày 07 tháng 02 năm 2018.
Án xử công khai sơ thẩm Bà H có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, Ông K vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 05/2018/DS-ST ngày 15/08/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Số hiệu: | 05/2018/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 15/08/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về