Bản án 04/2021/KDTM-ST ngày 18/05/2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỒNG XUÂN, TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 04/2021/KDTM-ST NGÀY 18/05/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Vào ngày 18 tháng 5 năm 2021 tại Tòa án nhân dân huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án KDTM thụ lý số: 10/2019/TLST-KDTM ngày 09 tháng 9 năm 2019 về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2021/QĐXXST-KDTM ngày 26 tháng 3 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2021/QĐST-KDTM ngày 23/4/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: NHNo&PTNT Việt Nam. Địa chỉ: 02 L, Q. B, Hà Nội. Người đại diện theo ủy quyền: ông Đoàn Văn N – GĐ. CN NHNo&PTNT Việt Nam – chi nhánh huyện Đồng Xuân, Phú Yên theo ủy quyền số 510/QĐ- HĐTV-PC ngày 19/6/2014 của CTHĐ thành viên NHNo&PTNT Việt Nam. Địa chỉ chi nhánh: 109 P, KP. T, thị trấn H, Đồng Xuân, Phú Yên.

Ông Đoàn Văn N ủy quyền lại cho ông Lê Đức Huy; Chức vụ: Trưởng Phòng kế hoạch kinh doanh – CN. NHNo&PTNT huyện Đồng Xuân, Phú Yên (Agribank CN Đồng Xuân) theo giấy ủy quyền số 417/GUQ-NHNo.ĐX ngày 22/02/2021. Có mặt.

Bị đơn: - Ông Phạm Hồng C – sinh năm 1964.

Địa chỉ: KP. Long C, thị trấn H, Đồng Xuân, Phú Yên. Vắng mặt - Bà Đỗ Thị T - sinh năm 1969 Địa chỉ: KP. Long C, thị trấn H, Đồng Xuân, Phú Yên. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, lời trình bày của đại diện nguyên đơn ông Lê Đức Huy tại phiên tòa như sau:

Vào ngày 03/7/2012 vợ chồng ông Phạm Hồng C và bà Đỗ Thị T, địa chỉ thường trú tại: KP. Long C, Thị Trấn H, Đồng Xuân, Phú Yên có vay tại NHNo&PTNT VN. Chi nhánh Đồng Xuân, Phú Yên (Agribank CN. Huyện Đồng Xuân, Phú Yên) theo hợp đồng tín dụng số 030712/HĐTD ngày 03/7/2012 với số tiền vay là 260.000.000đ (Hai trăm sáu mươi triệu đồng chẵn); Mục đích vay mua bán phế liệu; Hạn trả cuối cùng ngày 03/10/2013. Tài sản thế chấp bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ cho hợp đồng tín dụng trên gồm: Chiếc xe tải hiệu THACO, số máy: YC4D12021D12F5900328, số khung RNHFC5AYDAC051280, biển số:

78K- 8371do ông Phạm Hồng C là người đứng tên trong giấy đăng ký xe ô tô, theo hợp đồng thế chấp số 011209 ngày 27/6/2012; Quyền sử dụng đất của vợ chồng ông Đỗ Xuân K và bà Võ Thị S (cha mẹ ruột bà Đỗ Thị T), thửa đất số 03, tờ bản đồ số 18, loại đất ở, diện tích 300m2 tại KP. Long C, thị trấn H, Đồng Xuân, Phú Yên thế chấp theo HĐ thế chấp bằng tài sản của bên thứ 3 số 011210 ngày 27/6/2012.

Trong thời gian vay, vợ chồng ông Phạm Hồng C và bà Đỗ Thị T làm ăn kinh doanh bị thua lỗ, ông C đã bỏ trốn khỏi địa phương và mang theo chiếc xe tải thế chấp tại Ngân hàng. Tính đến ngày đến hạn (03/10/2013) ông C và bà T mới trả cho Ngân hàng là 5.500.000đ (trong đó gốc 1.693.889đ, lãi 3.806.111đ). Sau thời gian đó, ông C, bà T không thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo như hợp đồng đã ký kết. Ngân hàng đã có nhiều biện pháp để yêu cầu hộ vay trả nợ nhưng không có kết quả. Cho đến ngày 08/7/2015 vợ chồng ông Đỗ Xuân K và bà Võ Thị S (cha mẹ của bà T) đã tự nguyện xin bán tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất để Ngân hàng thu hồi một phần nợ gốc với số tiền là 180.000.000đ (Một trăm tám mươi triệu đồng chẵn). Hiện nay món vay trên đã quá hạn hơn 80 tháng, ông Phạm Hồng C đã bỏ trốn khỏi địa phương mang theo tài sản thế chấp, bà Đỗ Thị T không chịu thanh toán nợ cho Ngân hàng.

Hôm nay, Agribank CN. Huyện Đồng Xuân, Phú Yên yêu cầu Hội đồng xét xử buộc ông Phạm Hồng C và bà Đỗ Thị T phải có trách nhiệm trả cho Ngân hàng với số tiền nợ gốc và lãi tính đến ngày 18/5/2021 là 308.004.426đ (Ba trăm lẻ tám triệu không trăm lẻ bốn ngàn bốn trăm hai mươi sáu đồng). Trong đó nợ gốc 78.306.111đ, nợ lãi 229.698.315đ – lãi trong hạn là 168.642.535đ và lãi phạt quá hạn 61.055.780đ và số tiền lãi phát sinh từ sau ngày 18/5/2021 cho đến khi trả xong nợ.

*Tại các biên bản lấy lời khai có trong hồ sơ và tại phiên tòa hôm nay bà Đỗ Thị T trình bày: Tôi thừa nhận vào ngày 03/7/2012 tôi và ông Phạm Hồng C có vay tại Agribank CN. Huyện Đồng Xuân, Phú Yên theo hợp đồng tín dụng số 030712/HĐTD ngày 03/7/2012 với số tiền vay là 260.000.000đ (Hai trăm sáu mươi triệu đồng chẵn); Mục đích vay mua bán phế liệu; Hạn trả cuối cùng ngày 03/10/2013. Tài sản thế chấp bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ cho hợp đồng tín dụng trên gồm: Chiếc xe tải hiệu THACO, số máy: YC4D12021D12F5900328, số khung: RNHFC5AYDAC051280, biển số: 78K-8371do ông Phạm Hồng C là người đứng tên trong giấy đăng ký xe ô tô, theo HĐ thế chấp số 011209 ngày 27/6/2012; Quyền sử dụng đất của vợ chồng ông Đỗ Xuân K và bà Võ Thị S (cha mẹ ruột của tôi), thửa đất số 03, tờ bản đồ số 18, loại đất ở, diện tích 300m2 tại KP. Long C, thị trấn H, Đồng Xuân, Phú Yên thế chấp theo hợp đồng thế chấp bằng tài sản của bên thứ 3 số 011210 ngày 27/6/2012. Quá trình mua bán bị thua lỗ, đến khoảng tháng 8/2012 thì ông C đã bỏ đi khỏi địa phương mang theo cả chiếc xe tải đang thế chấp vay vốn tại Ngân hàng. Khi bỏ đi ông C không nói với gia đình biết, cho đến nay ông C không về. Hiện ông C đang làm gì, ở đâu tôi không rõ. Đến tháng 9/2020 giữa tôi và ông C đã được Tòa án nhân dân huyện Đồng Xuân xét xử chấm dứt quan hệ hôn nhân theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình vay vốn tôi và ông C đã trả được cho Ngân hàng 5.500.000đ (trong đó gốc 1.693.889đ, lãi 3.806.111đ). Sau thời gian đó, vì ông C đã bỏ đi, một mình tôi phải lo nuôi 02 con ăn học, điều kiện kinh tế quá khó khăn nên tôi không có khả năng thanh toán nợ cho Ngân hàng. Vì vậy, đến ngày 08/7/2015 cha mẹ ruột của tôi là ông Đỗ Xuân K và bà Võ Thị S đã tự nguyện xin bán tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất để Ngân hàng thu hồi một phần nợ gốc với số tiền là 180.000.000đ (Một trăm tám mươi triệu đồng chẵn). Số tiền nợ còn lại đến nay tôi không còn khả năng thanh toán. Hôm nay Agribank CN. Huyện Đồng Xuân, Phú Yên yêu cầu ông C và tôi phải có trách nhiệm trả số tiền nợ gốc và lãi tính đến ngày 18/5/2021 là 308.004.426đ (Ba trăm lẻ tám triệu không trăm lẻ bốn ngàn bốn trăm hai mươi sáu đồng). Trong đó nợ gốc 78.306.111đ, nợ lãi 229.698.315đ – lãi trong hạn là 168.642.535đ và lãi phạt quá hạn 61.055.780đ và số tiền lãi phát sinh từ sau ngày 18/5/2021 cho đến khi trả xong nợ, tôi có ý kiến như sau: Mặc dù khi vay vốn có sự thống nhất giữa tôi và ông C, việc vay vốn sử dụng vào mục đích buôn bán chung nhưng ông C đã bỏ trốn khỏi địa phương mang theo cả tài sản thế chấp tại Ngân hàng khi vay vốn. Trong khi đó, cha mẹ ruột tôi phải bán tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất trả nợ thay cho tôi hơn 2/3 số tiền vay vào năm 2015. Do vậy, số tiền còn lại tôi yêu cầu Hội đồng xét xử buộc ông Phạm Hồng C phải có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng, tôi không chịu trách nhiệm số tiền nợ nói trên như Ngân hàng yêu cầu.

* Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành triệu tập ông Phạm Hồng C, bà Đỗ Thị T để lấy lời khai, tham gia phiên họp giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng chỉ có bà Đỗ Thị T đến Tòa để làm việc, còn ông Phạm Hồng C đã bỏ đi khỏi địa phương. Qua xác minh tại Công an Thị trấn H và lời khai bà Đỗ Thị T thì ông Phạm Hồng C đã bỏ đi khỏi địa phương từ cuối năm 2012 cho đến nay không về, hiện không biết ông C đang làm gì và ở đâu. Tuy nhiên, ông C vẫn còn đăng ký hộ khẩu tại địa phương.

* Tại phiên tòa Kiểm sát viên có ý kiến:

- Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.; Nguyên đơn đã thực hiện đúng và đầy đủ các quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự.; Riêng bị đơn ông Phạm Hồng C trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay chưa thực hiện đúng các quy định về quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn theo quy định của BLTTDS. Riêng bà T đã đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

- Về quan hệ tranh chấp: Đề nghị HĐXX căn cứ khoản 2 Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng, khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 39, Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35 BLTTDS; Điều 292, 299, 463, 466, 470 Bộ luật dân sự năm 2015. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Agribank CN. Đồng Xuân, Phú Yên.

- Về án phí: Căn cứ vào Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, ông Phạm Hồng C và bà Đỗ Thị T phải chịu tiền án phí KDTM-ST.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[1]Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay, ông Phạm Hồng C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là đúng theo quy định của pháp luật.

[2]. Về thẩm quyền giải quyết: Agribank CN Đồng Xuân, Phú Yên có đơn khởi kiện bị đơn ông Phạm Hồng C và bà Đỗ Thị T trú tại KP. Long C, thị trấn H, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân nhân huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.

[3]. Về quan hệ pháp luật: Hợp đồng tín dụng ký kết giữa Agribank CN. Đồng Xuân, Phú Yên và ông Đỗ Hồng C, người ký thừa kế trong hợp đồng là bà Đỗ Thị T (vợ ông C đã ly hôn vào năm 2020) được thực hiện hoàn toàn tự nguyện, mục đích và nội dung không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội, hình thức giao dịch đều tuân thủ đúng pháp luật nên có hiệu lực thi hành. Hợp đồng ký kết giữa hai bên với mục đích lợi nhuận nên đây là tranh chấp hợp đồng tín dụng theo khoản 1 Điều 30 BLTTDS; Điều 2, Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng.

[4]. Xét yêu cầu của nguyên đơn Agribank CN. Đồng Xuân, Phú Yên yêu cầu ông Phạm Hồng C, bà Đỗ Thị T hoàn trả cho Agribank CN Đồng Xuân số tiền nợ gốc và lãi tính đến ngày 18/5/2021 là 308.004.426đ (Ba trăm lẻ tám triệu không trăm lẻ bốn ngàn bốn trăm hai mươi sáu đồng). Trong đó nợ gốc 78.306.111đ, nợ lãi 229.698.315đ – lãi trong hạn là 168.642.535đ và lãi phạt quá hạn 61.055.780đ và số tiền lãi phát sinh từ sau ngày 18/5/2021 cho đến khi trả xong nợ. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Giữa Agribank CN Đồng Xuân, Phú Yên và ông Phạm Hồng C có địa chỉ thường trú tại: KP. Long C, Thị Trấn H, Đồng Xuân, Phú Yên (bà Đỗ Thị T là người thừa kế) có ký kết hợp đồng tín dụng số 030712/HĐTD ngày 03/7/2012 với số tiền vay là 260.000.000đ (Hai trăm sáu mươi triệu đồng chẵn); Mục đích vay mua bán phế liệu; Hạn trả cuối cùng ngày 03/10/2013. Tài sản thế chấp bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ cho hợp đồng tín dụng trên gồm: Chiếc xe tải hiệu THACO, số máy YC4D12021D12F5900328, số khung RNHFC5AYDAC051280, biển số 78K- 8371 do ông Phạm Hồng C là người đứng tên trong giấy đăng ký xe ô tô, theo hợp đồng thế chấp số 011209 ngày 27/6/2012; Quyền sử dụng đất của vợ chồng ông Đỗ Xuân K và bà Võ Thị S (cha mẹ ruột bà Đỗ Thị T) đều đã chết, thửa đất số 03, tờ bản đồ số 18, loại đất ở, diện tích 300m2 tại KP. Long C, thị trấn H, Đồng Xuân, Phú Yên thế chấp theo hợp đồng thế chấp bằng tài sản của bên thứ 3 số 011210 ngày 27/6/2012.

Lãi suất tiền vay tại thời điểm ký hợp đồng tín dụng là 15,5%/năm; lãi suất cho vay và phương thức trả lãi được ghi trên giấy nhận nợ, sẽ được điều chỉnh khi thị trường có biến động. Lãi suất nợ quá hạn tối đa bằng 150% so với lãi suất vay đã thỏa thuận được ghi trên giấy nhận nợ.

Sau khi vay vốn tại Agribank CN Đồng Xuân, vợ chồng ông Phạm Hồng C và bà Đỗ Thị T sử dụng vào việc mua bán phế liệu. Tuy nhiên, do việc làm ăn mua bán bị thua lỗ, sau đó ông C mang theo tài sản thế chấp là chiếc xe tải đi khỏi địa phương từ tháng 8/2012 cho đến nay không về. Sau khi bỏ đi ông C cũng không có trách nhiệm cùng với bà T thanh toán khoản nợ vay cho Ngân hàng, đến ngày 08/7/2015 cha mẹ ruột của bà T là ông Đỗ Xuân K và bà Võ Thị S đã tự nguyện xin bán tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất để Ngân hàng thu hồi một phần nợ gốc với số tiền là 180.000.000đ (Một trăm tám mươi triệu đồng chẵn). Mặc dù ông C bỏ đi khỏi địa phương, hiện đang làm gì, ở đâu không rõ nhưng việc vay vốn và sử dụng vốn vay vào mục đích chung của gia đình là hoàn toàn tự nguyện, có sự thống nhất của ông C và bà T. Tuy nhiên, hiện nay ông C với bà T đã ly hôn (theo bản án số 06/2020/HNGĐ-ST ngày 08/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đồng Xuân) nhưng tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng ông C và bà T là vợ chồng cùng thỏa thuận việc giao kết hợp đồng tín dụng nên đều phải có trách nhiệm trả nợ chung mỗi người bằng nhau. Bà Đỗ Thị T cho rằng, hiện bà đã ly hôn với ông C, hơn nữa cha mẹ bà là ông Đỗ Xuân K và bà Võ Thị S đã bán đất thế chấp để trả nợ cho Ngân hàng số tiền 180.000.000đ nên bà không có trách nhiệm trả số nợ còn lại cho Ngân hàng là không phù hợp theo quy định của pháp luật. Do vậy, cần buộc ông Phạm Hồng C và bà Đỗ Thị T phải có trách nhiệm trả cho Ngân hàng với số tiền nợ gốc và lãi tính đến ngày 18/5/2021 là 308.004.426đ (Ba trăm lẻ tám triệu không trăm lẻ bốn ngàn bốn trăm hai mươi sáu đồng). Trong đó nợ gốc 78.306.111đ, nợ lãi 229.698.315đ – lãi trong hạn là 168.642.535đ và lãi phạt quá hạn 61.055.780đ và số tiền lãi phát sinh từ sau ngày 18/5/2021 cho đến khi trả xong nợ là phù hợp với quy định của pháp luật.

[5]. Xét hợp đồng thế chấp số 011209 ngày 27/6/2012 tài sản thế chấp gồm Chiếc xe tải hiệu THACO, biển số: 78K- 8371 đứng tên ông Phạm Hồng C, được ký giữa bên thế chấp là ông Phạm Hồng C và bên nhận thế chấp là Agribank CN Đồng Xuân. Các bên tham gia hợp đồng có đủ năng lực hành vi dân sự, trên cơ sở tự nguyện, các thỏa thuận có nội dung và mục đích không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội, không vi phạm điều cấm. Vì vậy hợp đồng thế chấp có hiệu lực buộc các bên phải thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình quy định tại hợp đồng. Trong trường hợp ông Phạm Hồng C vi phạm nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự xử lý tài sản đảm bảo là chiếc xe THACO, biển số 78K-8371 để thu hồi nợ. Đối với hợp đồng thế chấp số 011210 ngày 27/6/2012, tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất của vợ chồng ông Đỗ Xuân K và bà Võ Thị S (cha mẹ ruột bà Đỗ Thị T), thửa đất số 03, tờ bản đồ số 18, loại đất ở, diện tích 300m2 tại KP. Long C, thị trấn H, Đồng Xuân, Phú Yên thế chấp theo hợp đồng thế chấp bằng tài sản của bên thứ 3 đã thỏa thuận xử lý xong để thu hồi nợ gốc 180.000.000đ nên Hội đồng xét xử không tiếp tục xem xét.

Việc ông Phạm Hồng C vay thông qua hợp đồng vay tiền của Agribank CN. Đồng Xuân, Phú Yên rồi sau đó bỏ trốn khỏi địa phương cùng với tài sản thế chấp là chiếc xe tải hiệu THACO, biển số: 78K- 8371 do ông Phạm Hồng C là người đứng tên trong giấy đăng ký xe ô tô là có dấu hiệu về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Tòa án đã có công văn đề nghị Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Xuân xem xét về hình sự. Viện kiểm sát đã chuyển hồ sơ đến Cơ quan CSĐT công an huyện Đồng Xuân tiến hành điều tra theo quy định của pháp luật nhưng tại công văn số 760/CQCSĐT ngày 29/12/2020 của Cơ quan CSĐT Công an huyện Đồng Xuân đã trả lời không khởi tố về hình sự do đó không có căn cứ xem xét về trách nhiệm hình sự đối với ông Phạm Hồng C.

[5]. Về án phí: Ông Phạm Hồng C và bà Đỗ Thị T có trách nhiệm trả nợ cho nguyên đơn nên phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm tương ứng là (308.004.426đ x 5%) = 15.400221,3đ. Mỗi người phải chịu: 7.700.110,65đ – làm tròn: 7.700.000đ (Bảy triệu bảy trăm ngàn đồng chẵn).

Hoàn lại cho nguyên đơn Agribank – CN Đồng Xuân số tiền 6.257.000đ đã nộp tạm ứng án phí.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 30, khoản 1 Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Điều 2, Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 302, 305, 319, 342, 343, 344, 355 Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

Buộc ông Phạm Hồng C, bà Đỗ Thị T mỗi người phải có trách nhiệm trả cho Agribank – CN Đồng Xuân, Phú Yên với số tiền là 154.002.213đ (Một trăm năm mươi bốn triệu không trăm lẻ hai ngàn hai trăm mười ba đồng). Trong đó nợ gốc: 39.153.055,5đ; nợ lãi tính đến ngày 18/5/2021: 114.849.172,5đ.

Kể từ ngày 19/5/2021 cho đến khi thi hành án xong, ông Phạm Hồng C và bà Đỗ Thị T còn phải chịu tiền lãi phát sinh trên số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất tại hợp đồng số 030712/HĐTD ngày 03/7/2012 hai bên đã ký kết.

Trường hợp bị đơn ông Phạm Hồng C, bà Đỗ Thị T không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ thì nguyên đơn Agribank – CN Đồng Xuân được quyền yêu cầu Chi cục thi hành án dân sự huyện Đồng Xuân xử lý tài sản đảm bảo của bị đơn là chiếc xe tải hiệu THACO, biển số 78K-8371 đứng tên ông Phạm Hồng C để thi hành nghĩa vụ trả nợ cho Agribank – CN Đồng Xuân.

Bị đơn vẫn tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ nếu sau khi xử lý tài sản đảm bảo mà vẫn không đủ để thu hồi nợ.

Về án phí: Ông Phạm Hồng C, bà Đỗ Thị T mỗi người phải chịu 7.700.000đ (Bảy triệu bảy trăm ngàn đồng chẵn) án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm. Hoàn lại cho Agribank CN. Huyện Đồng Xuân, Phú Yên số tiền 6.257.000đ (Sáu triệu hai trăm năm mươi bảy ngàn đồng chẵn) tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số AA/2015/0011219 ngày 09/9/2020 của Cục thi hành án dân sự huyện Đồng Xuân.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguyên đơn, bị đơn bà Đỗ Thị T được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn ông Phạm Hồng C được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được niêm yết công khai hoặc tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

270
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2021/KDTM-ST ngày 18/05/2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:04/2021/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đồng Xuân - Phú Yên
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 18/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về