Bản án 04/2021/HSST ngày 08/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN LẠC, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 04/2021/HSST NGÀY 08/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 08 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:09/2021/TL ST - HS ngày 04 tháng 02 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2021/QĐXXST - HS ngày 25 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Hữu H, sinh ngày 27 tháng 8 năm 1981; sinh trú quán: Thôn G, xã T, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Hữu A và bà Nguyễn Thị B; có vợ là Trịnh Thị G và có 02 con, con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không;

Về nhân thân: Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 03/2014/HSST ngày 20/02/2014 của Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Nguyễn Hữu H 06 tháng tù về tội “Giả mạo chức vụ, cấp bậc”. Đến nay bị cáo đã được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/11/2020 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Vĩnh Phúc, (có mặt);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Hữu H là đối tượng nghiện chất ma túy từ năm 2010. Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 12/11/2020, H rủ Nguyễn Văn C là anh em đồng hao với H ở thôn 4, xã Trung Hà, huyện Yên Lạc đi mua ma túy về sử dụng, C đồng ý. H có 200.000đ còn C góp cùng với H 150.000đ. Toàn bộ số tiền trên, H đưa cho C cầm. Sau đó, H mượn xe mô tô biển kiểm sát 29T8 – 9669 của ông Nguyễn Hữu A là bố đẻ của H chở C đến nhà ông Trần Văn A ở khu 1 T, T, huyện M, thành phố Hà Nội để mua ma túy về sử dụng. Tại đây, H đứng đợi ở ngoài cổng, còn C vào nhà ông A mua ma túy, trong nhà ông A lúc này có bà Hạ Thị D là vợ ông A đang ở nhà nên C gặp bà D. Một lúc sau, C ra ngoài nói với H đã mua được 02 gói ma túy và đưa cho H giữ 01 gói còn C giữ 01 gói. H cầm 01 gói ma túy C vừa đưa rồi điều khiển xe mô tô chở C về nhà mình. Về đến nhà, H vào nhà còn C ra về. Khi H vừa tìm được chiếc xi lanh để sử dụng ma túy thì bị Công an huyện Yên Lạc bắt quả tang và thu giữ toàn bộ tang vật liên quan.

Tại kết luận giám định số: 2923/KLGĐ ngày 16/11/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: “Chất cục, bột màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1926g (Không phảy một chín hai sáu gam, không kể bao bì) là loại heroine”.

Vật chứng của vụ án: 01 gói nhỏ bọc ngoài bằng nilon, bên trong bọc giấy chứa chất bột dạng cục màu trắng trong túi quần phía trước bên phải H đang mặc, được niêm phong trong phong bì ký hiệu A1 và 01 xi lanh đã qua sử dụng trong túi quần bên trái phía trước H đang mặc.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Hữu H đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như các lời khai của bị cáo và người làm chứng đã khai nhận tại Cơ quan điều tra.

Bản cáo trạng số: 11/CT - VKS ngày 03/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố bị cáo Nguyễn Hữu H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc giữ quyền công tố luận tội và tranh luận đã phân tích lời khai nhận tội của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau; phù hợp với lời khai của người làm chứng và phù hợp với các vật chứng đã thu giữ được. Từ đó có đủ cở sở để xác định bị cáo Nguyễn Hữu H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Hữu H và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu H từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm tháng 09 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo H.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề xuất quan điểm về xử lý vật chứng liên quan đến vụ án và án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Nguyễn Hữu H không có ý kiến gì tham gia tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Lạc, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đã chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và không ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án này đều hợp pháp và đúng theo quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không có kiến nghị khắc phục gì.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo Nguyễn Hữu H đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố mà không có lời tự bào chữa nào khác. Xét lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người làm chứng; phù hợp với các vật chứng đã thu được và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Từ đó có đủ cơ sở để kết luận:

Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 12/11/2020, Nguyễn Hữu H đang có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói ma túy thì bị tổ công tác của Công an huyện Yên Lạc phát hiện bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng có liên quan.

Tại kết luận giám định số: 2923/KLGĐ ngày 16/11/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: “Chất cục, bột màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1926g (Không phảy một chín hai sáu gam, không kể bao bì) là loại heroine”.

Với hành vi trên của Nguyễn Hữu H đã có đủ cơ sở để khẳng định, bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy đinh tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự, Điều luật quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy…thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

….c) Herôin,…có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý, xâm phạm đến trật tự trị an, an toàn xã hội, gây nên sự bất bình trong quần chúng nhân dân. Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý đang là tệ nạn xã hội có chiều hướng ngày càng gia tăng, gây nên sự đau khổ bất hạnh cho nhiều gia đình, ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội. Tội phạm về ma tuý là nguy cơ dẫn đến các tội phạm khác như trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cướp tài sản…ngoài ra nó còn là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến căn bệnh thế kỷ: HIV - AIDS.

Khi đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Tuy bị cáo không có tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự nhưng bị cáo là người có nhân thân xấu. Năm 2014, bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc xử phạt 06 tháng tù về tội Giả mạo chức vụ, cấp bậc. Đến nay bị cáo đã chấp hành xong hình phạt và được xóa án tích, bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng rèn luyện bản thân trở thành người công dân tốt lại còn có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, điều này thể hiện sự coi thường pháp luật của bị cáo. Vì vậy khi lượng hình cần phải xử phạt bị cáo thật nghiêm minh trước pháp luật mới có tác dụng răn đe và phòng ngừa tội phạm chung. Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Về nguồn gốc ma túy: Quá trình điều tra Nguyễn Hữu H khai nhận, H cùng với Nguyễn Văn C đã mua ma túy của vợ chồng ông Trần Văn A và bà Hạ Thị D ở khu 1 T, T, huyện M, thành phố Hà Nội. Căn cứ vào lời khai của Nguyễn Hữu H, Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của ông Trần Văn A và bà Hạ Thị D nhưng không thu giữ được vật chứng gì. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã nhiều lần triệu tập ông A, bà D và anh C lên làm việc nhưng cả ba người trên đều không có mặt ở địa phương nên chưa có đủ cơ sở để làm rõ hành vi mua bán trái phép chất ma túy của họ. Vì vậy, Cơ quan điều tra tách ra để điều tra, khi nào làm rõ xử lý sau.

Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 29T8 – 9669: Quá trình điều tra đã làm rõ, chiếc xe mô tô trên là tài sản hợp pháp của ông Nguyễn H Hạnh là bố đẻ của H cho H mượn. Khi mượn xe, H không nói cho ông Hạnh biết mục đích mượn xe của mình là để đi mua ma túy nên ông Hạnh không biết việc H dùng xe mô tô của mình sử dụng vào việc phạm tội. Vì vậy, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với chiếc xe mô tô của ông Hạnh và ông Hạnh là phù hợp.

Vật chứng của vụ án: Tịch thu tiêu hủy 01 bao gói niêm phong ký hiệu “MẪU TRẢ” do Cơ quan giám định hoàn trả lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành và 01 xi lanh loại 3ml đã qua sử dụng.

Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản cho nên bị cáo Nguyễn Hữu H có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa. Hội đồng xét xử thấy rằng, bản thân bị cáo H là đối tượng bị nghiện ma túy, lại không có công việc ổn định nên thu nhập không thường xuyên ổn định, điều kiện kinh tế của bị cáo quá khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Nguyễn Hữu H phải chịu toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt Nguyễn Hữu H 01 (Một) năm 09 (Chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị báo bị bắt tạm giữ tạm giam 12/11/2020.

Căn cứ khoản 1, Điều 46 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 bao gói niêm phong ký hiệu “MẪU TRẢ” do Cơ quan giám định hoàn trả lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành và 01 xi lanh loại 3ml đã qua sử dụng.

(Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa Chi cục thi hành án huyện Yên Lạc và Công an huyện Yên Lạc ngày 05 tháng 3 năm 2021).

Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Nguyễn Hữu H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 04/2021/HSST ngày 08/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:04/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Lạc - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về