TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN PHÚ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 04/2021/HSST NGÀY 05/01/2021 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 05 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Tân Phú, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 183/2020/HSST ngày 30 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 213/2020/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:
Lưu Phương H; sinh năm: 1988, tại: Thành phố Hồ Chí Minh; trú tại: 249/44 đường V, phường P, quận T, Thành phố H; chỗ ở: 249/35 đường V, phường P, quận T, Thành phố H; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 12/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lưu Văn P, sinh năm 1957; và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1965; vợ, con: Chưa có; tiền án: Ngày 29/9/2008 bị Tòa án nhân dân quận Tân Bình xử phạt 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 năm; ngày 18/01/2010 bị Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, tổng hợp hình phạt với bản án số 264/2008/HSST ngày 29/9/2008 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 06 năm 06 tháng tù; ngày 31/8/2015, bị Tòa án nhân dân quận Tân Phú xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/11/2018, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 22/8/2020 - Có mặt tại phiên tòa.
Bị hại: Chị Cao Thị Kiều L, sinh năm: 1988; trú tại: 6/13 đường N, phường P, quận T, Thành phố H – Vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Anh Nguyễn Hoàng Tấn L1, sinh năm: 1983; trú tại: 42 đường L, phường P, quận T, Thành phố H -Vắng mặt 2/ Chị Cao Thị Kiều D, sinh năm: 1999; trú tại: Thôn K, xã N, thành phố Q, tỉnh Q - Vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 21/8/2020, Lưu Phương H điều khiển xe gắn máy hiệu Honda Airblade, biển số 59D2-693.46 khi lưu thông đến trước nhà số 42 đường L, phường P, quận T thì phát hiện chị Cao Thị Kiều L điều khiển xe gắn máy hiệu Vision, biển số 76B1-123.07 chở theo chị Cao Thị Kiều D và cháu Võ Anh K, đeo 01 túi xách, có dây đeo chéo từ phải sáng trái, phía trước bụng, đang dừng xe sát lề đường. Lưu Phương H nảy sinh ý định cướp giật tài sản, từ phía sau điều khiển xe chạy lên, áp sát vào bên phải xe của chị L, rồi dùng tay trái giật mạnh túi xách của chị L, thì bị chị L dùng tay giữ túi xách, tri hô và giữ lại làm quai đeo túi bị đứt, chiếc túi xách rơi xuống đường. Thấy vậy, H tăng ga xe bỏ chạy thì bị anh Nguyễn Hoàng Tấn L1 phát hiện chạy ra nắm tay lái, xô mạnh làm xe, H và anh L1 ngã ra đường. H dựng xe lên để bỏ chạy thì bị anh L1 và quần chúng nhân dân giữ xe nên H đã bỏ xe, chạy bộ trốn thoát, còn chị L đến cơ quan công an trình báo.
Qua truy xét, Công an quận Tân Phú phát hiện H tại trước số nhà 249/44 đường V, phường P, quận T nên đã kiểm tra hành chính và mời về trụ sở làm việc, tại đây H đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.
Theo Bản kết luận định giá tài sản số 1870/KL-HĐĐGTS ngày 01/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Tân Phú kết luận: 01 túi xách bằng da, màu vàng, có dây đeo chéo (đã bị đứt) không có nhãn hiệu, kích thước 15 x 25 cm trị giá 30.000 đồng; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 plus, màu đen, dung lượng 128 Gb, trị giá 4.500.000 đồng.
Vật chứng:
- 01 xe gắn máy hiệu Honda Airblade, màu đỏ - bạc - đen, biển số 59D2- 693.46 là xe gắn máy Lưu Phương H sử dụng để đi cướp giật tài sản, Qua xác minh, xe trên do Lưu Phương H đứng tên sở hữu.
- 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen trắng; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8, màu đen là điện thoại Lưu Phương H sử dụng để liên lạc cá nhân.
- 01 ví da màu đen bên trong có 1.100.000 đồng, là tài sản thu giữ được của Lưu Phương H.
- 01 đôi dép nhựa màu đen, 01 khẩu trang y tế màu xanh của Lưu Phương H bỏ lại hiện trường vụ án.
- 01 mũ bảo hiểm màu nâu, có sọc trắng; 01 áo thun ngắn tay màu trắng;
01 quần jean dài màu xanh, là trang phục Lưu Phương H mặc khi thực hiện hành vi cướp giật tài sản.
Tại bản cáo trạng số 171/CT-VKSQ.TP ngày 27 tháng 11 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú đã truy tố bị Lưu Phương H về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d, điểm i khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa:
- Sau khi kết thúc phần xét hỏi, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú giữ quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa, phát biểu ý kiến giữ nguyên quan điểm về tội danh và điều khoản mà cáo trạng đã truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng điểm d, điểm i khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Lưu Phương H từ 04 năm 06 tháng tù đến 05 năm tù.
Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị xử lý phần trách nhiệm dân sự và vật chứng.
- Bị cáo Lưu Phương H đã khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung vụ án được tóm tắt như trên, bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát chỉ đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án. Điều tra viên, Kiểm sát viên, khi thực hiện hành vi cũng như ban hành các quyết định tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong vụ án này đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Qua đó đã có đủ cơ sở để xác định:
Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 21/8/2020, Lưu Phương H điều khiển xe gắn máy hiệu Honda Airblade, biển số 59D2 – 693.46 áp sát vào bên phải xe mang biển số 76B1 – 123.07 do chị Cao Thị Kiều L điều khiển giật chiếc túi xách thì bị chị L giữ lại và truy hô làm chiếc túi xách rơi xuống đường. H tăng ga xe bỏ chạy thì bị anh Nguyễn Hoàng Tấn L1 phát hiện nắm tay lái xe mô tô xô mạnh làm xe ngã xuống đường, H bỏ xe chạy bộ trốn thoát. Qua truy xét H bị bắt giữ và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.
Vì vậy đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Lưu Phương H phạm tội “Cướp giật tài sản”, như bản cáo trạng đã truy tố. Do bị cáo sử dụng xe gắn máy công khai, chiếm đoạt tổng giá trị tài sản là 4.530.000 đồng và nhanh chóng tẩu thoát là thuộc trường hợp dùng thủ đoạn nguy hiểm nên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú truy tố bị cáo theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 là có cơ sở, đúng pháp luật. Ngoài ra, bị cáo là người có nhân thân xấu, vào ngày 29/9/2008 bị Tòa án nhân dân quận Tân Bình xử phạt 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 năm; ngày 18/01/2010 bị Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, tổng hợp hình phạt với bản án số 264/2008/HSST ngày 29/9/2008 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 06 năm 06 tháng tù; ngày 31/8/2015, bị Tòa án nhân dân quận Tân Phú xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/11/2018, bị cáo đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội rất nghiêm trọng là thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm nên bị cáo phải chịu thêm tình tiết tăng nặng định khung hình phạt qui định tại điểm i khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân, gây mất an ninh trật tự ở địa phương. Bản thân bị cáo nhận thức được hành vi cướp giật tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng xuất phát từ động cơ tư lợi, muốn có tiền tiêu xài một cách dễ dàng nhưng không muốn bỏ công sức lao động nên bị cáo đã cố ý phạm tội. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội một cách táo bạo và liều lĩnh, ngay trên đường phố có đông người qua lại, chứng tỏ ý thức xem thường pháp luật của bị cáo.
[4] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải có mức án nghiêm khắc, mới có tác dụng răn đe giáo dục đối với bị cáo và đảm bảo công tác phòng ngừa chung trong xã hội. Tuy nhiên, cũng xem xét bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo qui định tại điểm h, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị cáo chiếm đoạt là 01 túi xách bằng da bên trong có 01 điện thoại di động Iphone 7, đã thu hồi trả cho bị hại , chị L không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết phần trách nhiệm dân sự.
[6] Về xử lý vật chứng:
- 01 túi xách bằng da, màu vàng, có dây đeo chéo, không nhãn hiệu, kích thước 15cm x 25xm, bên trong có 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus đã thu hồi trả cho chị Cao Thị Kiều L nên Hội đồng xét xử không xử lý.
- 01 xe gắn máy hiệu Honda Airblade, màu đỏ - bạc - đen, biển số 59D2- 693.46, số khung RLHJF6323HZ260516, số máy JF63E-2312926, do bị cáo H đứng tên chủ sở hữu, bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen trắng; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8, màu đen và 01 ví da màu đen bên trong có 1.100.000 đồng là tài sản cá nhân của bị cáo H nên trả cho bị cáo theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- 01 đôi dép nhựa màu đen, 01 khẩu trang y tế màu xanh, 01 mũ bảo hiểm màu nâu, có sọc trắng; 01 áo thun ngắn tay màu trắng; 01 quần jean dài màu xanh, là trang phục Lưu Phương H mặc khi thực hiện hành vi cướp giật tài sản.
Tại phiên tòa hôm nay bị cáo không yêu cầu nhận lại nên tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 106 Bô luật Tố tụng hình sự.
Đối với anh Nguyễn Hoàng Tấn L1, chị Cao Thị Kiều L và chị Cao Thị Kiều D, khi bị cáo thực hiện hành vi cướp giật tài sản có giằng co té ngã xuống đường nhưng thương tích không đáng kể, anh L1, chị L và chị D từ chối giám định tỷ lệ thương tật nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[7] Án phí: Bị cáo Lưu Phương H phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo qui định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Tuyên bố bị cáo Lưu Phương H phạm tội "Cướp giật tài sản".
[2] Căn cứ vào: Điểm điểm i, d khoản 2 Điều 171; điểm h, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Lưu Phương H 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22 tháng 8 năm 2020.
[3] Về trách nhiệm dân sự: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[4] Về xử lý vật chứng:
Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 (một) xe gắn máy hiệu Honda Airblade, màu đỏ - bạc - đen, biển số 59D2-693.46, số khung RLHJF6323HZ260516, số máy JF63E-2312926.
Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Trả cho bị cáo Lưu Phường H 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen trắng, số Imel 356901038229141; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 8, màu đen, số Imel 35608009954595 và 01 (một) ví da màu đen bên trong có 1.100.000 (một triệu một trăm nghìn) đồng.
Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 Bô luật Tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy 01 (một) đôi dép nhựa màu đen, 01 (một) khẩu trang y tế màu xanh, 01 (một) mũ bảo hiểm màu nâu, có sọc trắng; 01 (một) áo thun ngắn tay màu trắng; 01 (một) quần jean dài màu xanh.
(Vật chứng hiện đang nhập kho theo Phiếu nhập kho vật chứng số 204/PNK ngày 24/8/2020 của Công an quận Tân Phú).
[5] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Buộc bị cáo Lưu Phương H nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 04/2021/HSST ngày 05/01/2021 về tội cướp giật tài sản
Số hiệu: | 04/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Tân Phú - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về