TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH HẬU GIANG
BẢN ÁN 04/2021/HS-ST NGÀY 04/02/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 04 tháng 02 năm 2021, tại Tòa án nhân dân huyện Châu Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 60/2020/TLST-HS ngày 10 tháng 12 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:
Trần Hoàng Q (O), sinh năm: 1988 tại quận N, thành phố C; Nơi cư trú: ấp Đ, xã Đ, huyện C, tỉnh H; nghề nghiệp: làm tóc; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; họ và tên cha: Trần Ngọc T (chết); họ và tên mẹ: Đặng Thị H (sống); Bị cáo chưa có vợ con; tiền án: 03, cụ thể. Lần 1 là Bản án số 27/2008/HSST ngày 12/12/2008 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang xử phạt bị cáo Trần Hoàng Q 15 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản, đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 17/01/2010. Lần 2 là Bản án số 83/2010/HSPT ngày 30/11/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang xử phạt bị cáo Trần Hoàng Q 04 năm tù giam về tội Trộm cắp tài sản, đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 04/9/2013. Lần 3 là Bản án số 31/2016/HSST ngày 20/4/2016 của Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai xử phạt bị cáo Trần Hoàng Q 03 năm tù giam về tội trộm cắp tài sản, đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 14/01/2019. Ngoài ra, tại Bản án số 82/2005/HSST ngày 26/9/2005 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ tuyên phạt đối với bị cáo Trần Hoàng Q 02 năm tù giam về tội Cướp giật tài sản, tuy nhiên thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo Quân là người chưa thành niên, nên sau khi chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/7/2007, bị cáo được coi như không có án tích; tiền sự: không; nhân thân: xấu; Bị cáo bị khởi tố ngày 25/9/2020, hiện bị cáo đang bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ tạm giam để điều tra làm rõ hành vi trộm cắp tài sản; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Người bị hại: Bà Đặng Thị H (H1), sinh năm: 1966; Địa chỉ: ấp Đ, xã Đ, huyện C, tỉnh H (có mặt)
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Trần Thị H (H2), sinh năm: 1946:
Địa chỉ: ấp Đ, xã Đ, huyện C, tỉnh H (có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trần Hoàng Q sống chung nhà với bà Trần Thị H (bà ngoại Q), bà Đặng Thị H (mẹ ruột Q) và Trần Hoàng H (em ruột Q) tại nhà bà H thuộc ấp Đ, xã Đ, huyện C, tỉnh H. Quá trình sống chung nhà, Q biết được bà Trần Thị H có đưa vàng cho bà Đặng Thị H cất giữ nên Q nảy sinh ý định lấy trộm để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân.
Vào khoảng 8 giờ ngày 16/8/2019, lợi dụng lúc bà H1, bà H2 và anh H vắng nhà, Q dùng thẻ nhựa cố định sim điện thoại (hình dáng tương tự như thẻ ATM) đút vào khe cửa tại vị trí chốt khóa, mở cửa phòng của bà H1 vào trong phòng tìm tài sản để lấy trộm. Lúc này, Q thấy cửa tủ quần án (loại tủ nhôm) trong phòng bà H1 đã bị khóa nên Q đi về phòng Q lấy một chìa khóa xe mô tô cũ rồi quay trở lại phòng bà H1, Q dùng chìa khóa vừa nạy ổ khóa, vừa dùng tay kéo mạnh cánh cửa tủ thì mở được tủ quần án, Q lấy con heo đất màu đỏ trắng để tiền tiết kiệm bên trong tủ đặt xuống nền gạch. Q tiếp tục dùng chìa khóa xe mô tô vừa nạy ổ khóa vừa dùng tay kéo mạnh mở ngăn tủ bên trong tủ quần án thì thấy 01 hộp bằng gỗ màu đen, bên trong hộp gỗ có 01 lắc đeo tay bằng vàng 24k, trọng lượng 10 chỉ, 01 sợi dây chuyền bằng vàng 18k và 01 mặt dây chuyền hình phật Quan Âm bằng đá màu xanh, xung quanh có gắn vàng 18k có tổng trọng lượng 05 chỉ, Q lấy toàn bộ số vàng nữ trang và con heo đất đi về phòng của Q. Sau đó Q đập con heo đất lấy số tiền 1.350.000 đồng tiền Việt Nam rồi đi xe Honda ôm đến thị trấn C, huyện C, tỉnh H để bán số vàng trên tại tiệm vàng không rõ tên, địa chỉ. Q bán được số tiền 52.000.000 đồng rồi tiếp tục đi xe khách lên tỉnh B để bỏ trốn, số tiền có được từ việc bán vàng và tiền lấy trộm trong heo đất Q đã tiêu xài cá nhân hết. Ngày 11/8/2020, Trần Hoàng Q tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản tại thành phố C, thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra quận N, thành phố C khởi tố, bắt tạm giam từ ngày 12/8/2020 đến nay (bút lục 67-73, 85-90) Căn cứ Kết luận định giá tài sản số 16/KLĐG ngày 29/8/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành, kết luận:
01 (một) chiếc lắc bằng vàng 24k, trọng lượng 10 chỉ có giá 41.070.000 đồng; 01 (một) sợi dây chuyền bàng vàng 18k, kèm mặt dây chuyền hình tượng phật Quan Âm bằng đá màu xanh có gắn vàng 18k xung quanh, tổng trọng lượng 05 chỉ có giá 13.950.000 đồng; 01 con heo đất màu đỏ, trắng có giá 33.700 đồng. Tổng cộng 55.053.700 đồng Quá trình điều tra, bị cáo Trần Hoàng Q đã thừa nhận hành vi lén lút lấy trộm vàng nữ trang và 01 con heo đất bên trong có 1.350.000 đồng vào ngày 16/8/2019. Như vậy, tổng giá trị tài sản bị cáo Trần Hoàng Q đã lấy trộm của bà Đặng Thị H là 56.403.700 đồng Tại Cáo trạng số 01/CT-VKS-HCT, ngày 9/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành đã truy tố bị cáo Trần Hoàng Q về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c, g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c, g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo từ 04 năm đến 05 năm tù. Tổng hợp hình phạt 3 năm 6 tháng tù tại bản án số 215/2020/HS-ST ngày 18/12/2020 của Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung từ 7 năm 6 tháng tù đến 8 năm 6 tháng tù, thời gian phạt tù tính từ ngày 12/8/2020.
Bị hại bà Đặng Thị H (mẹ bị cáo) về trách nhiệm hình sự: tại phiên tòa bà H1 xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, về trách nhiệm dân sự không yêu cầu bị cáo bồi thường.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị H (bà ngoại bị cáo) không có yêu cầu gì.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Xét hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành, điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không ai khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.
[2] Về nội dung: Quá trình điều tra và tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã có cơ sở xác định: Vào khoảng 8 giờ 00 phút, ngày 16/8/2019 tại nhà của bà Trần Thị H thuộc ấp Đ, xã Đông P, huyện C, tỉnh H. Trần Hoàng Q đã dùng thẻ nhựa cố định, loại thẻ sim điện thoại mở cửa đột nhập vào phòng ngủ của bà Đặng Thị H, sau đó dùng chìa khóa xe mô tô cạy cửa tủ và ngăn tủ bên trong tủ quần áo, rồi lén lút lấy trộm 01 lắc đeo tay bằng vàng 24k, trọng lượng 10 chỉ, 01 sợi dây chuyền bằng vàng 18k và 01 mặt dây chuyền hình phật Quan Âm bằng đá màu xanh, xung quanh có gắn vàng 18k có tổng trọng lượng 05 chỉ và 01 con heo đất bên trong có số tiền 1.350.000 đồng tiền Việt Nam. Qua kết luận định giá và lời thừa nhận của bị cáo thì có cơ sở xác định tổng giá trị tài sản bị cáo Trần Hoàng Q đã chiếm đoạt của bà Đặng Thị H là 56.403.700 đồng, ngoài ra bị cáo Trần Hoàng Q có 03 tiền án về tội Trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích. Vì vậy hành vi này của bị cáo Trần Hoàng Q đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại điểm c, g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự. Do đó Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành truy tố bị cáo là đúng pháp luật.
[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng đến an ninh trật tự và an toàn xã hội, gây tâm lý hoang mang, lo sợ cho người dân. Do đó cần phải xử lý và áp dụng một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm đối với hành vi phạm tội của bị cáo.
[4] Về tình tiết tăng nặng: bị cáo không có tình tiết tăng nặng Tình tiết giảm nhẹ: trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo; bị hại bà Đặng Thí H xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do đó lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát đối với hành vi phạm tội của bị cáo là có căn cứ phù hợp với quy định của pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không ai yêu cầu bồi thường, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[6] Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 con heo đất màu đỏ trắng, có hình cái nơ màu vàng trên lưng, bị vỡ một mãnh phía sau.
[7] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c, g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51: khoản 1 Điều 56 Bộ luật hình sự:
Tuyên bố: Bị cáo Trần Hoàng Q (O) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt: Bị cáo Trần Hoàng Q (O) 04 (bốn) năm tù. Tổng hợp hình phạt 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù tại bản án số 215/2020/HS-ST ngày 18/12/2020 của Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ. Buộc bị cáo Trần Hoàng Q (O) phải chấp hành hình phạt chung là 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn phạt tù tính từ ngày 12/8/2020.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu gì, nên không đặt vấn đề giải quyết.
Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy 01 con heo đất màu đỏ trắng, có hình cái nơ màu vàng trên lưng, bị vỡ một mãnh phía sau. Vật chứng theo phiếu nhập kho số PNK 2021/08, ngày 24/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang.
Về án phí: Áp dụng Điều 135; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng Bị cáo, người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 04/2021/HS-ST ngày 04/02/2021 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 04/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Hậu Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/02/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về