TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SA ĐÉC - TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 04/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Trong các ngày 11 và 27 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sa Đéc, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 260/2020/HNGĐ-ST ngày 01 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn ” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2020/QĐST-HNGĐ ngày 22 tháng 12 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2021/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Trần Thị Thùy T, sinh năm 1992 Địa chỉ: khóm B, phường A thành phố S, tỉnh Đồng Tháp.
Bị đơn: Anh Lê Hoài P, sinh năm 1991 Địa chỉ: khóm B, phường A, thành phố S, tỉnh Đồng Tháp.
Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa, bị đơn vắng mặt không có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Quá trình tham gia tố tụng tại tòa án, nguyên đơn chị Trần Thị Thùy T trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh P tìm hiểu khoảng 07 tháng thì tiến tới hôn nhân chung sống vợ chồng vào năm 2008, không có tổ chức đám cưới, có đăng ký kết hôn vào ngày 10/10/2011 tại UBND phường An Hòa, thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp. Sau khi kết hôn vợ chồng sống chung bên nhà chồng. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoảng năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn do tính tình hai bên không còn phù hợp, bất đồng quan điểm sống. Từ năm 2016 chị T về nhà cha mẹ ruột sống và vợ chồng sống ly thân đến nay. Từ khi chị T về nhà cha mẹ ruột sống anh P cũng không tới lui động viên hàn gắn tình cảm giữa vợ chồng. Nay chị T nhận thấy tình cảm đối với anh P không còn, vợ chồng không thể trở lại tiếp tục chung sống nên chị T yêu cầu ly hôn anh P.
Về nuôi con chung: Quá trình chung sống với anh P có 01 con chung tên Lê Ngọc Bảo R, sinh ngày 25/11/2009, hiện con đang sống với anh P. Khi ly hôn, chị T đồng ý để con cho anh P tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng. Chị T tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000 đồng.
Về chia tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu xem xét giải quyết.
* Bị đơn anh Lê Hoài P: Quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng: Thông báo thụ lý vụ án; Giấy triệu tập; Thông báo tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa nhưng anh P vẫn vắng mặt không có lý do và cũng không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
* Tại bản khai ngày 29/12/2020 cháu Lê Ngọc Bảo R trình bày: Khi cha mẹ ly hôn và không còn sống chung với nhau nữa thì cháu có nguyện vọng được sống chung với cha và ông bà nội.
* Ý kiến của Viện kiểm sát tại phiên tòa:
- Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa cũng như các đương sự đều thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Riêng bị đơn không thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 72 của bộ luật tố tụng dân sự.
- Về việc giải quyết vụ án: Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng chị T và anh P đã thực sự trầm trọng, vợ chồng đã sống ly thân thời gian dài không thể hàn gắn trở lại chung sống. Do đó chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị T. Cho chị T và anh P ly hôn; Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Ghi nhận sự tự nguyện của chị T: giao cho anh P được quyền nuôi con tên Lê Ngọc Bảo R, chị T tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000 đồng. Về chia tài sản chung, nợ chung do đương sự không yêu cầu nên không xem xét. Về án phí đề nghị Hội đồng xét xử xem xét theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Căn cứ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án xác định quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các đương sự là tranh chấp hôn nhân và gia đình về việc ly hôn. Bị đơn có hộ khẩu thường trú tại khóm Tân Bình, phường An Hòa, thành phố Sa Đéc, Đồng Tháp. Do đó, căn cứ vào khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35 và điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp.
Tại phiên tòa, bị đơn anh Lê Hoài P đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, căn cứ Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.
[2] Về nội dung, Hội đồng xét xử xét thấy:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Thùy T và anh Lê Hoài P chung sống vợ chồng từ năm 2008, trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức đám cưới, có đăng ký kết hôn vào ngày 10/10/2011 tại UBND phường An Hòa, thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp. Do đó, quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh P được xác định là hôn nhân hợp pháp.
Tuy nhiên, trong quá trình chung sống giữa chị T và anh P đã phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, không hợp nhau. Vợ chồng không có sự quan tâm, chia sẽ với nhau trong cuộc sống cũng như công việc để từ đó tình cảm vợ chồng ngày càng khắn khít hơn mà thay vào đó anh chị chọn cách sống ly thân từ năm 2016 cho đến nay. Về phía anh P quá trình giải quyết vụ án anh P mặc dù có nhận đầy đủ các thông báo, giấy triệu tập của Tòa án, biết việc chị T yêu cầu ly hôn nhưng anh P vẫn không có văn bản trình bày ý kiến cũng không có thiện chí đến Tòa tham gia phiên hòa giải để hàn gắn tình cảm với chị T, cho thấy anh P đã từ bỏ quyền lợi của mình, anh P không mong muốn hàn gắn tình cảm với chị T. Điều đó chứng tỏ tình cảm vợ chồng giữa chị T và anh P đã không thể hàn gắn được, mâu thuẫn giữa vợ chồng anh chị đã thực sự trầm trọng, vợ chồng không thể trở lại tiếp tục chung sống. Do đó, chị T yêu cầu ly hôn anh P là có căn cứ và phù hợp với quy pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[2.2] Về nuôi con chung: Khi ly hôn, chị T đồng ý giao con chung tên Lê Ngọc Bảo R, sinh ngày 25/11/2009, hiện con đang sống với anh P cho anh P được tiếp tục nuôi dưỡng.
Xét thấy, hiện cháu R đang có cuộc sống ổn định với anh P và được gia đình bên nội quan tâm, giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi trong quá trình nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục và dành nhiều tình thương cho cháu. Mặt khác, hiện chị T đang đi làm, ít có điều kiện, thời gian chăm sóc cho cháu R nên đã tự nguyện giao con cho anh P nuôi dưỡng. Vì vậy, để đảm bảo cho cháu R có cuộc sống ổn định và phát triển tốt về tâm sinh lý. Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục giao cháu R cho anh P trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung sau khi ly hôn là phù hợp với quy định của pháp luật, phù hợp với nguyện vọng của cháu R và bảo đảm quyền lợi về mọi mặt của cháu R trong sinh hoạt, học tập. Chị T được quyền tới lui thăm nom con chung, không ai được quyền cản trở là phù hợp với quy định tại các Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình.
[2.3] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Về phía anh P không có văn bản trình bày ý kiến về việc cấp dưỡng nuôi con chung. Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay chị T tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung sau ly hôn mức cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 1.500.000 đồng cho đến khi cháu R thành niên đủ 18 tuổi. Xét thấy, sự tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung sau khi ly hôn của chị T là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật và đảm bảo quyền lợi của cháu R nên Hội đồng xét xử chấp nhận sự tự nguyện của chị T.
[2.4] Về chia tài sản chung, nợ chung: Chị T xác định không có, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Trần Thị Thùy T phải chịu toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Đối với ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ các Điều 28, Điều 35, Điều 147, Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
- Căn cứ các Điều: 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp và quản lý án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử :
1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Trần Thị Thùy T. Cho ly hôn giữa chị Trần Thị Thùy T và anh Lê Hoài P.
2. Về nuôi con chung:
Anh Lê Hoài P được quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Lê Ngọc Bảo R, sinh ngày 25/11/2009, hiện con đang sống với anh P.
Chị Trần Thị Thùy T có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom, chăm sóc con, không ai được cản trở.
3. Về cấp dưỡng nuôi con: Ghi nhận sự tự nguyện của chị T:
Chị Trần Thị Thùy T tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 1.500.000 đồng. Thời gian cấp dưỡng tính từ khi bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi cháu R thành niên đủ 18 tuổi.
3. Về tài sản chung, nợ chung: Chị Trần Thị Thùy T xác định không có, không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết.
4. Về án phí: Chị Trần Thị Thùy T nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm (về ly hôn) và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm (về cấp dưỡng nuôi con). Số tiền tạm ứng án phí 300.000đ chị T đã nộp ngày 30/9/2020 theo biên lai thu số 0008329, được khấu trừ vào án phí phải nộp. Chị T còn phải nộp số tiền là 300.000 đồng tại Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án Dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014.
Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.
Bản án 04/2021/HNGĐ-ST ngày 27/01/2021 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 04/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Sa Đéc - Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về