TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN D - TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 04/2021/HNGĐ-ST NGÀY 25/01/2021 VỀ LY HÔN
Vào ngày 25 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện D tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình sơ thẩm thụ lý số 379/2020/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 10 năm 2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Lê Thị Q, sinh năm 1979 Địa chỉ: Tổ dân phố P2, thị trấn D, huyện D, Khánh Hòa; có mặt.
- Bị đơn: Ông Khổng Minh H, sinh năm 1977 Địa chỉ: Tổ dân phố P2, thị trấn D, huyện D, Khánh Hòa; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn bà Lê Thị Q trình bày: Bà và ông Khổng Minh H tự nguyện chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã D, huyện T, tỉnh Phú Thọ vào năm 2000. Trong quá trình chung sống, vợ chồng hay xảy ra mâu thuẫn, cãi vã. Ông H thường xuyên uống rượu bia và đánh đập vợ con. Ông còn hay ghen tuông vô cớ mỗi khi bà Q đi làm về khuya. Vào năm 2017, bà Q có yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông H, tuy nhiên do nghĩ đến con cái và cũng cho nhau cơ hội nên bà Q đã rút đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện D. Nhưng đến nay mâu thuẫn đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng đã không còn, bà Q không thể tiếp tục sống với ông H nên bà yêu cầu Tòa án cho bà được ly hôn với ông H. Về con chung: Bà và ông H có 02 con chung là Khổng Hồng A - sinh ngày 11/3/2008 và Khổng Thị Xuân H - sinh ngày 18/3/2013. Bà Q yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung, không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung: Bà Q và ông H tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Bà Q xác định không có.
Bị đơn ông Khổng Minh H theo các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa trình bày: Về thời gian chung sống và kết hôn ông H cũng thống nhất như bà Q đã trình bày. Trong thời gian chung sống, ông H thừa nhận vợ chồng đôi lúc có cãi vã nhưng không xảy ra mâu thuẫn gì lớn, vẫn có thể giải quyết được. Từ tháng 10/2020 đến nay, bà Q cùng các con chung bỏ nhà đi, không chung sống cùng ông. Nay, bà Q yêu cầu ly hôn thì ông mong muốn bà Q đưa các con về cùng chung sống với nhau để cùng nhau chăm sóc các con chung, ông H không đồng ý ly hôn. Về con chung: Ông H cũng xác định giữa ông và bà Q có 02 con chung là Khổng Hồng A - sinh ngày 11/3/2008 và Khổng Thị Xuân H - sinh ngày 18/3/2013, ông yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Khổng Hồng A, đồng ý giao cháu Khổng Thị Xuân H cho bà Q nuôi, hai bên không cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Về tài sản chung: Ông H không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.
Phát biểu tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện D cho rằng Tòa án nhân dân huyện D đã tuân thủ, chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho bà Q được ly hôn ông H; về con chung: giao 02 con chung là Khổng Hồng A - sinh ngày 11/3/2008 và Khổng Thị Xuân H - sinh ngày 18/3/2013 cho bà Q trực tiếp chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng, ông H không cấp dưỡng nuôi con chung; về tài sản chung: Bà Q và ông H tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét; về nợ chung: Bà Q và ông H đều xác định không có nên không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và căn cứ vào kết quả trA tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Q và ông Khổng Minh H tự nguyện chung sống và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã D, huyện T, tỉnh Phú Thọ nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, bà Lê Thị Q vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu được ly hôn ông Khổng Minh H. Ông H không đồng ý ly hôn với lý do mong muốn vợ chồng đoàn tụ để cùng chăm lo các con chung. Căn cứ vào biên bản xác minh của Tòa án nhân dân huyện D lập ngày 09/12/2020 tại Ủy ban nhân dân thị trấn D, huyện D thì địa phương xác minh có việc địa phương giải quyết mâu thuẫn gia đình giữa bà Q và ông H vào ngày 30/9/2020, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn gia đình là do ông H thường ăn nhậu, đánh chửi vợ con, gây mất an ninh trật tự ở địa phương. Ngoài ra, quá trình giải quyết vụ án, bà Q có nộp cho Tòa án 01 Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hôn nhân gia đình số 65 ngày 22/6/2017 của Tòa án nhân dân huyện D, thể hiện trước đó bà Q có đơn xin ly hôn với ông H nhưng sau đó rút đơn để cho hai bên thêm cơ hội hàn gắn tình cảm. Tuy nhiên, đến nay ông H vẫn không có sự thay đổi gì, không lo làm ăn, xây dựng hạnh phúc gia đình mà thường ăn nhậu, say xỉn, xúc phạm đến vợ con, dẫn đến việc bà Q phải cùng các con chung ra ở bên ngoài và tiếp tục yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông H. Điều này cho thấy mối quan hệ hôn nhân giữa bà Q và ông H đã có sự mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không thể duy trì, hàn gắn lại được nên cần chấp nhận yêu cầu của bà Q, cho bà Q được ly hôn ông H.
[2]. Về con chung: Bà Q và ông H đều xác định có 02 con chung là Khổng Hồng A - sinh ngày 11/3/2008 và Khổng Thị Xuân H - sinh ngày 18/3/2013. Tại phiên tòa, bà Q yêu cầu được nuôi 02 con chung nêu trên, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung đối với ông H; ông H yêu cầu được nuôi cháu Khổng Hồng A, đồng ý giao cháu Khổng Thị Xuân H cho bà Q nuôi dưỡng và hai bên không cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.
Xét tại phiên tòa và biên bản lấy lời khai ngày 23/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện D, ông H trình bày có việc thường uống rượu, hiện ông H là người khuyết tật, hay ốm đau, bệnh tật, phải nhận tiền trợ cấp xã hội hàng tháng của Nhà nước và không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên đối với việc giao con chung cháu Khổng Hồng A cho ông H nuôi dưỡng sẽ không đảm bảo trong việc phát triển về mặt thể chất, tinh thần của cháu A nên Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu giao cháu A cho ông H trực tiếp nuôi dưỡng.
Đối với yêu cầu nuôi hai con chung của bà Q, Hội đồng xét xử nhận thấy căn cứ vào nội dung bản tự khai ngày 28/10/2020 tại Tòa án nhân dân huyện D và đơn xét nguyện vọng của cháu A, cháu H nộp cho Tòa án ghi ngày 25/01/2021 thì hai con chung (cháu A và cháu H) đều có nguyện vọng muốn chung sống cùng với bà Q, không muốn ở với ông H do ông H hay uống rượu, đánh chửi và không cho các cháu đi học. Quá trình giải quyết vụ án, bà Q có nộp cho Tòa án nhân dân huyện D các đơn xác nhận về việc có nghề nghiệp, thu nhập và chỗ ở ổn định (có chính quyền địa phương xác nhận) và hiện nay bà Q cũng là người đang trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng hai con chung. Nên Hội đồng xét xử xét bà Q có đủ điều kiện đảm bảo trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các con chung, vì vậy cần giao các con chung (cháu A và cháu H) cho bà Q trực tiếp nuôi dưỡng là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật. Đồng thời, Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của bà Q không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con chung. Ông H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
Quá trình nuôi dưỡng các con chung, bà Q và ông H đều có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như về cấp dưỡng nuôi con chung.
[3]. Về tài sản chung: Bà Q và ông H không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.
[4]. Về nợ chung: Bà Q và ông H đều xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5]. Về án phí: Bà Q phải nộp 300.000đ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: 1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bà Lê Thị Q được ly hôn ông Khổng Minh H.
2. Về con chung: Giao 02 con chung là Khổng Hồng A - sinh ngày 11/3/2008 và Khổng Thị Xuân H - sinh ngày 18/3/2013 cho bà Lê Thị Q trực tiếp chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng; ông Khổng Minh H không cấp dưỡng nuôi con chung.
Ông Khổng Minh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
Quá trình nuôi dưỡng các con chung, bà Q và ông H đều có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như về cấp dưỡng nuôi con chung 3. Về tài sản chung: Bà Lê Thị Q và ông Khổng Minh H không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.
4. Về án phí: Bà Lê Thị Q phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2019/0001853 ngày 16 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện D, tỉnh Khánh Hòa; bà Q đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.
5. Về quyền, nghĩa vụ thi hành án: Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.
6. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án 04/2021/HNGĐ-ST ngày 25/01/2021 về ly hôn
Số hiệu: | 04/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Diên Khánh - Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 25/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về