Bản án 04/2021/HNGĐ-ST ngày 19/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO THẮNG - TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 04/2021/HNGĐ-ST NGÀY 19/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 19 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 227/2020/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 10 năm 2020 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Minh N – Sinh năm: 1989.

Địa chỉ: Tổ dân phố số A, thị trấn T, huyện B, tỉnh Lào Cai- Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Mộng H - Sinh năm: 1975;

Địa chỉ: Tổ dân phố số A, thị trấn T, huyện B, tỉnh Lào Cai - Vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện nộp tại Tòa án ngày 15/10/2020 và bản tự khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, chị Nguyễn Thị Minh N trình bầy:

Chị và anh Nguyễn Mộng H kết hôn ngày 02/02/2010 tại UBND xã X, huyện L, tỉnh Phú Thọ. Anh, chị chung sống đến khoảng năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính cách không hợp, bất đồng quan điểm, hay xẩy ra cãi nhau, cuộc sống chung không hòa thuận, hạnh phúc. Gia đình hai bên đã khuyên bảo nhiều lần nhưng anh, chị không khắc phục được mâu thuẫn. Anh, chị sống cùng nhà nhưng không quan tâm đến nhau. Bản thân chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho anh, chị ly hôn.

Tại bản tự khai ngày 20/10/2020, anh H xác nhận việc đăng ký kết hôn và mâu thuẫn vợ chồng như chị N đã trình bầy là đúng sự thật. Anh chị sống cùng nhà nhưng không quan tâm đến nhau, cuộc sống gia đình không hạnh phúc. Đến nay chị N có đơn xin ly hôn thì anh cũng nhất trí vì xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho anh, chị ly hôn.

Về con chung: Chị N và anh H đều xác nhận, quá trình chung sống, anh chị có hai con chung là cháu Nguyễn Hữu N - Sinh ngày: 07/4/2010 và cháu Nguyễn Quang M - Sinh ngày: 23/02/2017, hiện tại hai cháu phát triển bình thường. Chị N có nguyện vọng nuôi dưỡng cháu Minh và để anh H nuôi dưỡng cháu Nam. Anh H cũng nhất trí với ý kiến của chị N về việc nuôi dưỡng con chung. Chị N và anh H đều không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Chị N và anh H đều xác nhận có một số tài sản chung nhưng thỏa thuận tự chia nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về công nợ chung: Chị N và anh H trình bầy không nợ ai và không cho ai vay nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, anh Nguyễn Mộng H đã đến Tòa án làm việc và có bản tự khai trình bầy ý kiến như đã nêu trên. Sau đó anh H vắng mặt tại địa phương nên Tòa án đã tiến hành xác minh và niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật. Tòa án đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận không khai chứng cứ theo quy định nhưng không hòa giải được vụ án vì vắng mặt bị đơn.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Thắng phát biểu ý kiến trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến phiên tòa hôm nay: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đều thực hiện đúng các quy định của pháp luật: về thủ tục Tố tụng dân sự, xác định đúng quan hệ pháp luật, đúng tư cách người tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ và giải quyết trong thời hạn luật định.

Nguyên đơn chấp hành tốt các quy định của pháp luật khi tham gia tố tụng; Bị đơn đã có bản tự khai trình bầy ý kiến, tuy nhiên lại vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án nên Tòa án đã xác minh và niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định. Tại phiên tòa, bị đơn đã có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt và không có ý kiến gì khác. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 227, Khoản 1 Điều 228, Khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: xử cho chị Nguyễn Thị Minh N được ly hôn với anh Nguyễn Mộng H; xử giao cháu Nguyễn Quang M – Sinh ngày: 23/02/2017 cho chị Nguyễn Thị Minh N trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi; xử giao cháu Nguyễn Hữu N – Sinh ngày: 07/4/2010 cho anh Nguyễn Mộng H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Do chị N và anh H đều không yêu cầu cấp dưỡng tiền nuôi con chung nên không xem xét giải quyết; tuyên án phí và quyền kháng cáo cho đương sự theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị Minh N khởi kiện xin ly hôn với anh Nguyễn Mộng H và đề nghị Tòa án giải quyết việc nuôi dưỡng chăm sóc con chung khi ly hôn. Các đương sự đều có hộ khẩu thường trú tại thị trấn Tằng Loỏng, huyện Bảo Thắng. Vì vậy đây là tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai theo quy định tại Điều 28 và Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Minh N và anh Nguyễn Mộng H là hợp pháp. Quá trình chung sống, anh chị phát sinh mâu thuẫn do tính cách không hợp nhau, bất đồng quan điểm. Cuộc sống chung không hòa thuận, hạnh phúc, anh chị sống cùng nhà nhưng không quan tâm đến nhau. Gia đình hai bên đã khuyên bảo nhiều lần nhưng anh, chị không khắc phục được. Mâu thuẫn của anh, chị đã được địa phương xác nhận là đúng sự thật. Do mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng và mục đích hôn nhân không đạt được.Vì vậy việc chị Nguyễn Thị Minh N xin ly hôn với anh Nguyễn Mộng H là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

Quá trình giải quyết vụ án anh H đã đến Tòa án làm việc và có bản tự khai trình bầy ý kiến nhất trí ly hôn với chị N. Tuy nhiên do anh H vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án nên Tòa án đã tiến hành xác minh và niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định. Do anh H đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên cần xét xử vắng mặt anh H là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị Minh N và anh Nguyễn Mộng H đều xác nhận, anh chị có hai con chung là cháu Nguyễn Hữu Nam - Sinh ngày: 07/4/2010 và cháu Nguyễn Quang Minh - Sinh ngày: 23/02/2017, hiện tại hai cháu phát triển bình thường. Chị N có nguyện vọng nuôi dưỡng cháu Minh và để anh H nuôi dưỡng cháu Nam, anh H cũng nhất trí để chị N nuôi dưỡng cháu M và anh có nguyện vọng nuôi dưỡng cháu Nam. Anh, chị đã có đơn xin xác nhận mức thu nhập đảm bảo điều kiện nuôi con. Vì vậy cần giao cháu Nguyễn Quang Minh cho chị N nuôi dưỡng và giao cháu Nguyễn Hữu N cho anh Nguyễn Mộng H nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân gia đình, phù hợp với ý kiến, nguyện vọng của cháu Nguyễn Hữu Nam.

Do chị N và anh H không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung: chị N và anh H xác nhận tự thỏa thuận chia tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về công nợ chung: Chị N và anh H xác nhận không nợ ai và không cho ai vay nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Minh N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 227, Khoản 1 Điều 228, Khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng Dân sự; Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

1. Xử cho chị Nguyễn Thị Minh N được ly hôn với anh Nguyễn Mộng H.

2. Về con chung: Xử giao cháu Nguyễn Quang M - Sinh ngày: 23/02/2017 cho chị Nguyễn Thị Minh N trực tiếp nuôi dưỡng, trông nom, chăm sóc, giáo dục cho đến khi cháu đủ 18 tuổi; xử giao cháu Nguyễn Hữu N – Sinh ngày:  07/4/2010 cho anh Nguyễn Mộng H trực tiếp nuôi dưỡng, trông nom, chăm sóc giao dục cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Anh Nguyễn Mộng H và chị Nguyễn Thị Minh N không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, anh Nguyễn Mộng H và chị Nguyễn Thị Minh N đều có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Minh N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0002606 ngày 20/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai; Chị Nguyễn Thị Minh N đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn. Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2021/HNGĐ-ST ngày 19/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:04/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bảo Thắng - Lào Cai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về