Bản án 04/2021/HNGĐ-ST ngày 11/01/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn, nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG RIỀNG, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 04/2021/HNGĐ-ST NGÀY 11/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH - LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 11 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 448/2020/TLST - HNGĐ ngày 14 tháng 10 năm 2020 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình - Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 160/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 23 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trần Thị Thùy L, sinh năm: 1989 (có mặt). Hộ khẩu thường trú: Ấp T, xã H, huyện G, tỉnh Kiên Giang. Địa chỉ nơi cư trú: Ấp 7, xã V, huyện Q, tỉnh Kiên Giang.

Bị đơn: Anh Trần Bá B, sinh năm: 1986 (có mặt).

Địa chỉ: Ấp T, xã H, huyện G, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 25/8/2020 và quá trình giải quyết vụ án, chị Trần Thị Thùy L là nguyên đơn trình bày:

Chị và anh B tự nguyện kết hôn tháng 4/2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện G; vợ chồng chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, do anh B thiếu trách nhiệm với vợ con, không quan tâm đến chị, giữa chị và gia đình anh B không hòa thuận. Tháng 5/2020, chị về nhà cha, mẹ ruột ở và sống ly thân với anh B cho đến nay, trong thời gian sống ly thân anh B có đến gặp chị để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng chị không đồng ý.

Quá trình chung sống chị và anh B có 02 người con chung là cháu Trần Hoàng M, sinh ngày 01/01/2017 và cháu Trần Thị Quỳnh N, sinh ngày 25/5/2020 do chị trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng (kể từ tháng 5/2020 cho đến nay).

Tại phiên tòa, chị cương quyết yêu cầu được ly hôn với anh B.

Về con chung: Chị yêu cầu được nuôi cháu M và cháu N, chị có thu nhập ổn định và đủ điều kiện nuôi con nên không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con; chị đảm bảo quyền thăm con cho anh B. Sở dĩ, trong thời gian sống ly thân chị không cho anh B chở cháu M về bên gia đình anh B, do sợ anh B đem cháu M đi nơi khác; nếu Tòa án giao cháu M và cháu N cho chị được quyền nuôi dưỡng hoặc anh B đồng ý để chị nuôi các cháu, chị sẽ cho anh B chở các cháu về bên gia đình anh B bình thường, chị không đồng ý giao cháu M cho anh B trực tiếp nuôi dưỡng.

Về tài sản và nợ chung chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Trần Bá B là bị đơn trình bày:

Anh thừa nhận lời trình bày của chị L về hôn nhân tự nguyện, thời diểm kết hôn, có đăng ký kết hôn, thời gian sống ly thân và về con chung là đúng.

Tuy nhiên, về nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn anh không biết lý do gì chị L làm đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn, anh thừa nhận có lúc thiếu sự quan tâm đối với chị L. Trong thời gian vợ chồng sống ly thân anh đã nhiều lần đến gặp chị L và cha, mẹ chị L để nói chuyện mong muốn được hàn gắn tình cảm vợ chồng, tại phiên tòa anh cam kết sửa đổi khuyết điểm, mong muốn chị L rút đơn khởi kiện để vợ chồng tiếp tục chung sống và cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng các con.

Đối với yêu cầu của chị L, anh có ý kiến như sau: Anh không muốn ly hôn nhưng nếu chị L thật sự cương quyết ly hôn thì anh thống nhất ly hôn.

Về con chung: Đối với cháu N (dưới 36 tháng tuổi) anh thống nhất để chị L chăm sóc, nuôi dưỡng. Đối với cháu M anh yêu cầu được quyền nuôi dưỡng, anh có đủ điều kiện nuôi con và thu nhập ổn định từ việc làm ruộng, chăn nuôi tại nơi cư trú, đi làm cho Công ty ở huyện C, tỉnh Kiên Giang nên không yêu cầu chị L cấp dưỡng; anh xác định về điều kiện nuôi cháu M của anh tốt hơn chị L, anh bảo đảm quyền thăm con cho chị L.

Về tài sản và nợ chung anh thống nhất không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Phát biểu quan điểm của đại diện Viện kiểm sát:

Thẩm phán xác định quan hệ tranh chấp, tư cách đương sự, thẩm quyền giải quyết vụ án, xem xét việc thụ lý vụ án, cấp tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng, tiến hành thu thập chứng cứ và thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm như: Nguyên tắc xét xử, thành phần Hội đồng xét xử, các bước tiến hành thủ tục phiên tòa sơ thẩm và trực tiếp thẩm vấn các đương sự tại phiên tòa, đảm bảo được tính khách quan của vụ án. Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Điều 51 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật của các đương sự đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định tại các Điều 70, Điều 71, Điều 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Chị L và anh B kết hôn tháng 4/2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện G, tỉnh Kiên Giang nên quan hệ hôn nhân của anh, chị là hợp pháp. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, sau đó xảy ra mâu thuẫn chủ yếu giữa gia đình anh B và chị L, hai bên cho nhau thời gian để khắc phục sửa chữa khuyết điểm nhưng không mang lại hiệu quả tích cực, trái lại ngày càng trở nên trầm trọng hơn và anh, chị đã sống ly thân với nhau từ tháng 5/2020 cho đến nay. Mặc dù, anh B không muốn ly hôn nhưng nếu chị L cương quyết yêu cầu ly hôn thì anh đồng ý. Xét thấy, hôn nhân của anh, chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Cho nên, việc chị L yêu cầu được ly hôn với anh B là có cơ sở, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị L đối với anh B.

Về con chung: Đối với cháu Trần Thị Quỳnh N, sinh ngày 25/5/2020 (dưới 36 tháng tuổi), anh B đồng ý để chị L nuôi dưỡng nên đề nghị ghi nhận.

Đối với cháu Trần Hoàng M, sinh ngày 01/01/2017. Mặc dù, hai bên đều có đủ điều kiện nuôi con, nhưng cháu M đang được chị L chăm sóc, nuôi dưỡng ổn định, không ảnh hưởng đến thể chất hay tinh thần. Căn cứ Điều 81, Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình đề nghị giao cháu M cho chị L tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, anh B không phải cấp dưỡng nuôi các con do chị L không yêu cầu.

Về tài sản và nợ chung: Chị L và anh B không yêu cầu Tòa án giải quyết, đề nghị Hội đồng xét xử không xét.

Về án phí: Đề nghị buộc chị L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Chị Trần Thị Thùy L yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, nuôi con với anh Trần Bá B Đây là tranh chấp về ly hôn, nuôi con khi ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Anh B là bị đơn cư trú tại huyện G, tỉnh Kiên Giang. Căn cứ khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

[2]. Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Chị L và anh B kết hôn tháng 4/2014, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn ngày 20/8/2014 tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện G, tỉnh Kiên Giang nên quan hệ hôn nhân giữa anh, chị là hợp pháp. Chị L và anh B thừa nhận vợ chồng chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2020 thì xảy ra mâu thuẫn, do anh B thiếu sự quan tâm đối với chị L và nguyên nhân chủ yếu do chị L và gia đình anh B không hòa thuận. Hậu quả từ tháng 5/2020, anh chị đã tự chấm dứt quan hệ vợ chồng không còn quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau và kể từ khi phát sinh mâu thuẫn anh, chị tự hàn gắn tình cảm nhiều lần để tiếp tục chung sống nhưng không đạt kết quả. Do đó, chị L và anh B đều vi phạm nghiêm trọng về quyền, nghĩa vụ của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.

Kết quả xác minh nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn giữa chị L và anh B tại nơi cư trú, Phó ấp T, xã H, huyện G, tỉnh Kiên Giang cung cấp: Không biết được nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn giữa chị L và anh B.

Vì vậy, Tòa án tiến hành thủ tục hòa giải để giải quyết mâu thuẫn, tạo điều kiện hàn gắn tình cảm vợ chồng cho chị L và anh B nhưng không đạt kết quả do chị L cương quyết yêu cầu được ly hôn và anh B xác định mặc dù anh không muốn ly hôn nhưng nếu chị L cương quyết thì anh đồng ý ly hôn. Điều này cho thấy tình cảm vợ chồng của anh, chị đã phai nhạt, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị L đối với anh B.

Về con chung: Chị L và anh B có 02 người con chung là cháu Trần Hoàng M, sinh ngày 01/01/2017 và cháu Trần Thị Quỳnh N, sinh ngày 25/5/2020. Về điều kiện nuôi con: Chị L và anh B thừa nhận hai bên đều có thu nhập ổn định và đủ điều kiện nuôi con, sự thừa nhận này hoàn toàn phù hợp với kết quả Tòa án xác minh Ban lãnh đạo ấp nơi cư trú của hai bên.

Đối với cháu N (dưới 36 tháng tuổi): Chị L yêu cầu được quyền chăm sóc, nuôi dưỡng và anh B thống nhất nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Xét yêu cầu của chị L và anh B về việc yêu cầu được quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cháu M, Hội đồng xét xử thấy rằng: Kể từ tháng 5/2020 cho đến nay, cháu M do chị L chăm sóc, nuôi dưỡng ổn định đảm bảo sự phát triển về mọi mặt. Mặc dù, chị L không cho anh B chở cháu M về nhà anh B nhưng không gây khó khăn cho anh B thực hiện quyền thăm nom các con chung. Mặt khác, kết quả xác minh Phó ấp 7, xã V, huyện Q, tỉnh Kiên Giang cung cấp: Các con chung của chị L do chị L chăm sóc, nuôi dưỡng ổn định; chị L có nhân thân tốt và có đủ điều kiện nuôi các con. Điều này cho thấy cháu M hiện nay do chị L chăm sóc, nuôi dưỡng ổn định, đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của cháu, nếu thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng cháu M sẽ ảnh hưởng đến tâm lý của cháu, có thể gây ra hậu quả không tốt. Vì vậy, việc anh B yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu M là không có căn cứ để chấp nhận.

Từ những nhận định nêu trên về con chung, Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình: Ghi nhận việc anh B đồng ý để chị L tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Trần Thị Quỳnh N, sinh ngày 25/5/2020; giao cháu Trần Hoàng M, sinh ngày 01/01/2017 cho chị L được quyền chăm sóc, nuôi dưỡng.

Anh B không phải cấp dưỡng nuôi các con chung do chị L không yêu cầu. Trừ trường hợp có yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật, anh B được quyền đến thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung không ai được quyền cản trở.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị L và anh B không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3]. Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chị L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng.

[4]. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình;

Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Trần Thị Thùy L đối với anh Trần Bá B.

2. Về con chung: Ghi nhận việc anh Trần Bá B đồng ý để chị Trần Thị Thùy L tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Trần Thị Quỳnh N, sinh ngày 25/5/2020. Giao cháu Trần Hoàng M, sinh ngày 01/01/2017 cho chị Trần Thị Thùy L được quyền chăm sóc, nuôi dưỡng.

Anh Trần Bá B không phải cấp dưỡng nuôi các con chung do chị L không yêu cầu. Trừ trường hợp có yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo qui định của pháp luật. Anh B được quyền đến thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung không ai được quyền cản trở.

3. Về án phí: Chị Trần Thị Thùy L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0005528 ngày 13/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, tỉnh Kiên Giang, chị L đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Trần Thị Thùy L và anh Trần Bá B có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án là ngày 11/01/2021.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 04/2021/HNGĐ-ST ngày 11/01/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn, nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:04/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Riềng - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về