Bản án 04/2021/DS-PT ngày 13/01/2021 về tranh chấp bồi thường do tính mạng bị xâm phạm

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 04/2021/DS-PT NGÀY 13/01/2021 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG DO TÍNH MẠNG BỊ XÂM PHẠM

Trong ngày 13 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 263/2020/TLPT-DS ngày 10/12/2020 về “Tranh chấp bồi thường do tính mạng bị xâm phạm”.

Do Bản án số 91/2020/DS-ST ngày 22/09/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 260/2020/QĐ-PT ngày 22/12/2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn:

1.1. Ông Nguyễn Thanh N (O), sinh năm 1962 (có mặt)

1.2. Bà Trần Thị Phương H, sinh năm 1964 (có mặt) Cùng cư trú: ấp H1, xã H2, thành phố X, tỉnh An Giang.

Đại diện hợp pháp của ông Nguyễn Thanh N và bà Trần Thị Phương H: ông Lương Tống T1, sinh năm 1964; cư trú: khóm Thới H3, phường T2, thành phố X, tỉnh An Giang; địa chỉ liên hệ: phường P, thành phố X, tỉnh An Giang. (Văn bản ủy quyền ngày 19/9/2020) (có mặt)

2. Bị đơn: Anh Phan Văn N1, sinh năm 1996; cư trú: ấp H1, xã H2, thành phố X, tỉnh An Giang. (có mặt) Người kháng cáo: anh Phan Văn N1 là bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Đại diện hợp pháp của ông Nguyễn Thanh N và bà Trần Thị Phương H, ông Lương Tống T1 trình bày: tai nạn giao thông đường bộ xảy ra vào lúc 02 giờ ngày 17/4/2017 tại ấp Mỹ An, xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên làm cho anh Nguyễn Thanh T (con của ông N – bà H) tử vong do gãy trật đốt sống cổ, chèn ép tủy. Nguyên nhân tai nạn do anh Phan Văn N1 điều khiển xe máy biển số 67F9 - 5201 trong tình trạng say rượu (đã uống rượu, bia cùng nạn nhân T, trong khi T có kết quả đo nồng độ cồn trong máu là 2,321g/l), chở nạn nhân T ngồi phía sau trong tình trạng không an toàn (một tay lái xe, một tay choàng phía sau kèm giữ nạn nhân) dẫn đến mất lái, va vào hàng rào gây tai nạn giao thông.

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Long Xuyên ban hành Quyết định không khởi tố số 154 ngày 01/11/2018 đối với anh Phan Văn N1 nên vợ chồng ông N – bà H khởi kiện vụ án dân sự yêu cầu anh Phan Văn N1 có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho ông Nguyễn Thanh N và bà Trần Thị Phương H là cha mẹ ruột của ông Nguyễn Thanh T (ông T chưa có vợ con).

Ông N và bà H xác định số tiền ông bà yêu cầu anh Phan Văn N1 bồi thường là 309.800.000 đồng, gồm các khoản:

+ Chi phí mai táng là 11.800.000 đồng; cụ thể: hòm: 2.500.000 đồng; tẩm liệm: 1.800.000 đồng; làm mộ: 3.500.000 đồng; đãi đám: 4.000.000 đồng.

+ Bồi thường thiệt hại tổn thất tinh thần do tính mạng bị xâm hại là: 1.490.000 đồng x 100 tháng lương x 2 người = 298.000.000 đồng.

Căn cứ để ông Nguyễn Thanh N và bà Trần Thị Phương H yêu cầu là mặc dù anh Phan Văn N1 có nồng độ cồn trong máu là 2,321g/l nhưng vẫn chở anh Nguyễn Thanh T trong tình trạng say rượu, không an toàn (một tay lái xe, một tay choàng phía sau kèm giữ nạn nhân) dẫn đến mất lái, va vào hàng rào gây tai nạn giao thông vào ngày 17/4/2017 tại ấp Mỹ An, xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên, làm cho anh Nguyễn Thanh T tử vong.

* Bị đơn, anh Phan Văn N1 thừa nhận vụ tai nạn giao thông xảy ra vào ngày 17/4/2017 đúng như nội dung trình bày của ông Nguyễn Thanh N và bà Trần Thị Phương H là cha mẹ của anh Nguyễn Thanh T, đó là, sau khi uống rượu tại nhà của Nguyễn Văn Tú là bạn của anh và anh T thì anh có điều khiển xe máy biển số 67F9- 5201 trong tình trạng say rượu. Anh chở anh T ngồi phía sau trong tình trạng không an toàn, một tay lái xe, một tay choàng phía sau kèm giữ T, dẫn đến mất lái, va vào hàng rào gây tai nạn giao thông dẫn đến anh T tử vong do gãy trật đốt sống cổ, chèn ép tủy.

Anh thống nhất theo Thông báo số 657/TB-CQCSĐT-ĐTTH ngày 01/11/2018 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Long Xuyên về việc không khởi tố vụ án.

Đối với yêu cầu khởi kiện của ông N và bà H yêu cầu bồi thường thiệt hại do tính mạng của anh T bị xâm phạm thì gia đình ông có đến gia đình ông N và bà H để thương lượng và chia sẻ một phần khó khăn, nhưng ông N, bà H không đồng ý nhận.

Nay do hoàn cảnh khó khăn, là lao động chính trong gia đình và còn phải lo cho vợ con, nên ông xin được bồi thường cho ông N, bà H số tiền 20.000.000 đồng. Đối với yêu cầu của ông N, bà H yêu cầu ông bồi thường số tiền 309.800.000 đồng, thì ông không đồng ý do hoàn cảnh khó khăn.

Tại Bản án số 91/2020/DS-ST ngày 22 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên đã xử:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thanh N và bà Trần Thị Phương H đối với ông Phan Văn N1.

Buộc anh Phan Văn N1 có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho ông Nguyễn Thanh N và bà Trần Thị Phương H 160.800.000 đồng; không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thanh N và bà Trần Thị Phương H yêu cầu anh Phan Văn N1 bồi thường 149.000.000 đồng của 100 tháng lương cơ sở.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, việc thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 05/10/2020, anh Phan Văn N1 kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm vì anh cho rằng anh không có lỗi và gia đình quá khó khăn, không có thu nhập ổn định nên không có khả năng bồi thường.

Tại phiên tòa, các đương sự vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo và không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Bị đơn, anh Phan Văn N1 đồng ý bồi thường chi phí mai táng với số tiền 11.800.000 đồng nhưng do hoàn cảnh khó khăn nên chỉ đồng ý bồi thường chi phí mai táng và một khoản tiền để bù đắp tổn thất tinh thần với tổng số tiền là 20.000.000 đồng.

Đại diện hợp pháp của ông Nguyễn Thanh N và bà Trần Thị Phương H cho rằng anh N1 kháng cáo nhưng không đưa ra được các căn cứ nào khác nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh N1, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang phát biểu về vụ án: từ khi thụ lý phúc thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; đương sự, đại diện hợp pháp của đương sự thực hiện đúng, đầy đủ quyền, nghĩa vụ theo Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung: nguyên nhân xảy ra tai nạn giao thông đều do có lỗi của anh N1 và anh T (anh N1 điều khiển xe có nồng độ cồn và lái xe không an toàn, anh T ngồi phía sau xe có sử dụng rượu bia đo nồng độ cồn 2,321g/l máu và ngồi không vững nên anh N1 phải dùng 01 tay vòng giữ anh T) và do cả hai đều có lỗi nên phải chịu 50% lỗi gây ra nhưng Tòa án cấp sơ thẩm buộc anh N1 phải chịu toàn bộ trách nhiệm là gây thiệt hại cho phía anh N1. Từ phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự sửa bản án sơ thẩm, buộc anh N1 phải bồi thường số tiền 80.400.000 đồng và chịu tiền án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa đã cho thấy:

[1] Về thủ tục: anh Phan Văn N1 kháng cáo và nộp tiền tạm ứng án phí kháng cáo trong thời hạn luật định nên được Hội đồng xét xử xem xét theo quy định.

[2] Về kháng cáo của anh Phan Văn N1, Hội đồng xét xử nhận thấy: anh Phan Văn N1 thống nhất với ông Nguyễn Thanh N và bà Trần Thị Phương H về vụ tai nạn và nguyên nhân gây ra cái chết của anh Nguyễn Thanh T nhưng anh không đồng ý bồi thường như mức bản án sơ thẩm đã quyết định vì anh cho rằng anh không có lỗi gây ra cái chết cho anh T và vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có thu nhập ổn định nên không có khả năng bồi thường. Tuy nhiên tại phiên tòa, anh N1 đồng ý bồi thường chi phí mai táng với số tiền 11.800.000 đồng nhưng do hoàn cảnh khó khăn nên chỉ đồng ý bồi thường chi phí mai táng và một khoản tiền để bù đắp tổn thất tinh thần với tổng số tiền là 20.000.000 đồng.

Xét lý do, căn cứ kháng cáo của anh Phan Văn N1, Hội đồng xét xử xét thấy:

[2.1] Sau khi uống rượu, anh Phan Văn N1 (nồng độ cồn trong hơi thở đo được là 0,069mg/l) đã điều khiển xe môtô chở anh Nguyễn Thanh T và do anh N1 không làm chủ tay lái đã dẫn đến tai nạn, gây ra cái chết của anh Nguyễn Thanh T (nguyên nhân tử vong do gãy trật cột sống cổ, chèn ép tủy); như vậy, anh Phan Văn N1 đã có hành vi xâm phạm đến tính mạng của anh Nguyễn Thanh T và anh T không hoàn toàn có lỗi trong vụ việc trên nên anh Phan Văn N1 phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 584 Bộ luật dân sự năm 2015.

[2.2] Đối với chi phí mai táng: tại phiên tòa, các bên đương sự thống nhất với nhau về chi phí mai táng cho anh Nguyễn Thanh T với số tiền 11.800.00 đồng; đây là chi phí hợp lý và các đương không tranh chấp, không có kháng cáo, kháng nghị về phần này nên Hội đồng xét xử không xem xét lại phần chi phí này.

[2.3] Đối với việc anh N1 cho rằng gia đình khó khăn, không có thu nhập ổn định nên chỉ đồng ý bồi thường với số tiền 20.000.000 đồng (đã bao gồm chi phí mai táng), Hội đồng xét xử xét thấy: theo quy định tại khoản 2 Điều 591 Bộ luật dân sự năm 2015 thì ngoài chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, chi phí hợp lý cho việc mai táng, tiền cấp dưỡng mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng; người chịu trách nhiệm bồi thường còn phải chi trả một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại. Căn cứ vào quy định trên của Bộ luật dân sự năm 2015, anh Phan Văn N1 là người đã có hành vi xâm phạm đến tính mạng của người khác nên anh phải có nghĩa vụ chi trả một khoản tiền để bù đắp tổn thất tinh thần mà ông N, bà H phải gánh chịu và Tòa án câp sơ thẩm đã đánh giá, buộc anh N1 chi trả khoản tiền bù đắp tổn thất tinh thần với mức 100 tháng lương cơ sở là phù hợp; anh N1 kháng cáo không đồng ý với mức bồi thường với lý do không có khả năng là thể chấp nhận được và đây không phải là cơ sở để xem xét giảm mức chi trả khoản tiền bù đắp tổn thất tinh thần mà người thân thích của người bị thiệt hại phải gánh chịu.

Về ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang cho rằng anh T cũng có lỗi trong vụ việc để xem xét giảm một khoản tiền bù đắp về tinh thần là không hợp lý vì trong vụ việc này, chính anh N1 đã có hành vi điều khiển xe môtô sau khi đã sử dụng rượu bia và có nồng độ cồn trong hơi thở là 0,069mg/l khí thở nên anh N1 phải chịu trách nhiệm về hành vi này; hơn nữa, khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần không phải là mức bồi thường thiệt hại mà là khoản tiền nhằm bù đắp, xoa dịu nỗi đau về tinh thần mà những người thân thích của người chết phải gánh chịu.

Từ phân tích trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh Phan Văn N1 và ý kiến phát biểu đề nghị sửa bản án sơ thẩm của Kiểm sát viên.

[3] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị nên đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Về án phí: do kháng cáo của anh Phan Văn N1 không được Hội đồng xét xử chấp nhận nên anh N1 còn phải chịu tiền án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 147, Điều 148, khoản 1 Điều 308 và Điều 313 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 584, 585, 586 và 591 Bộ luật dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 6, điểm d khoản 1 Điều 12, khoản 4 Điều 26, khoản 1 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Xử:

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh Phan Văn N1.

Giữ nguyên Bản án số 91/2020/DS-ST ngày 22 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên.

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thanh N và bà Trần Thị Phương H đối với anh Phan Văn N1.

Buộc anh Phan Văn N1 có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho ông Nguyễn Thanh N và bà Trần Thị Phương H 160.800.000 đồng.

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thanh N và bà Trần Thị Phương H yêu cầu anh Phan Văn N1 bồi thường 100 tháng lương cơ sở với số tiền 149.000.000 đồng.

Về án phí:

Ông Nguyễn Thanh N và bà Trần Thị Phương H được miễn nộp án phí dân sự sơ thẩm.

Anh Phan Văn N1 phải nộp 8.040.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm, được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0005589 ngày 06/10/2020 Chi cục thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan Thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

626
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2021/DS-PT ngày 13/01/2021 về tranh chấp bồi thường do tính mạng bị xâm phạm

Số hiệu:04/2021/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 13/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về