Bản án 04/2020/KDTM-ST ngày 24/09/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng; hợp đồng thế chấp

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM GIÀNG – TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 04/2020/KDTM-ST NGÀY 24/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG; HỢP ĐỒNG THẾ CHẤP

Ngày 24 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án Kinh doanh thương mại thụ lý số: 02/2019/TLST-KDTM ngày 18-5-2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng thế chấp, Hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2020/QĐST-KDTM ngày 31/7/2020, Quyết định hoãn phiên toà số 01/2020/QĐST-KDTM ngày 21/8/2020, giữa các đương sự:

1- Nguyên đơn: Ngân hàng.

Trụ sở chính: Số 198, Tr Q Kh, phường T, quận Hoàn Kiếm, TP Hà Nội. Người đại diện theo pháp luật: Ông Th - Chủ tịch HĐQT.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông C - Giám đốc.

Người được ủy quyền lại: Ông K1 - Trưởng phòng giao dịch. (Có mặt)

2 - Bị đơn: Ông H, sinh năm 1972.

ĐKHKTT và trú tại: Thôn T, xã C, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. (vắng mặt)

3 - Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông K, sinh năm 1960 và bà , sinh năm 1970.

Đều trú tại: Thôn T, xã C, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết tại Tòa án, nguyên đơn trình bày:

Ngày 14/11/2016, Ngân hàng (viết tắt là V) ký kết với ông H hợp đồng cho vay bán lẻ số 16164/PGDPD/VCBHD, mục đích vay vốn: kinh doanh gỗ và sản xuất đồ mộc dân dụng các loại. Số tiền cho vay: 350.000.000đ. Thời hạn vay: 06 tháng kể từ ngày rút vốn đến ngày bên vay trả nợ xong tính cho từng lần rút vốn (theo từng giấy nhận nợ). Lãi suất 8,5%/năm và được điều chỉnh theo thông báo của bên cho vay tại thời điểm rút vốn và cố định trong suốt thời gian nhận nợ. Lãi suất quá hạn là 140% lãi suất cho vay trong hạn. Ngày 31/5/2017, ông H ký giấy nhận nợ số 02, V đã giải ngân và ông H đã nhận đủ số tiền 350.000.000đ bằng tiền mặt. Quá trình thực hiện hợp đồng, ông H đã thanh toán được số tiền gốc là 79.043.414đồng Tài sản bảo đảm nghĩa vụ trả nợ cho khoản vay theo hợp đồng trên là quyền sử dụng đất mang tên ông K và bà T . Ngày 15/11/2016, ông K và bà T đã ký kết hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 16164/TC/PGDPD/NHNTHD với V. Tài sản thế chấp theo Hợp đồng thế chấp là thửa đất có số thửa 978, tờ bản đồ số 02, diện tích 159m2, loại đất ở nông thôn. Địa chỉ thửa đất: Thôn T, xã C, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Đất đã có giấy CNQSDĐ số CD 794094 do UBND huyện Cẩm Giàng cấp ngày 27-01-2016 cho ông K và bà T. Trên đất không có tài sản gì.

Việc ký kết hợp đồng thế chấp giữa ông K và bà T với V là hoàn toàn tự nguyện, hợp đồng thế chấp có được công chứng và có đăng ký giao dịch bảo đảm tại cơ quan có thẩm quyền.

Quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng, ông H đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ. VCB làm việc với ông H nhiều lần để đôn đốc thanh toán nhưng ông H không thực hiện được nên buộc V phải khởi kiện ra Tòa án.

Đến nay, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đề nghị Toà án buộc ông H phải thanh toán cho V số tiền nợ gốc là 270.956.586đ, tiền lãi trong hạn là 77.943.518đ, tiền lãi quá hạn là 30.964.850đ (tính đến ngày 24/9/2020). Cộng bằng 379.864.954đ. Ông H còn phải tiếp tục trả tiền lãi phát sinh theo lãi suất thoả thuận tại Hợp đồng cho vay bán lẻ số 16164/PGDPD/VCBHD kể từ ngày 25/9/2020 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ. Khi bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật, ông H không thanh toán được khoản nợ nêu trên, V có quyền yêu cầu ông K và bà T phải bàn giao tài sản thế chấp cho V để V tự xử lý thu hồi nợ hoặc yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền buộc ông K và bà T bàn giao tài sản đảm bảo của khoản vay cho V để kê biên, phát mại thu hồi nợ cho V theo quy định.

Trường hợp ông H không thanh toán được hoặc thanh toán không đầy đủ khoản nợ trên và phải phát mại tài sản thì số tiền thu được trừ đi các chi phí làm thủ tục phát mại và thanh toán toàn bộ khoản nợ cho V, còn dư thì trả lại cho ông K bà T; Nếu không đủ thanh toán mọi chi phí phát mại và khoản nợ của V thì ông H còn phải tiếp tục thanh toán số tiền nợ còn thiếu.

Ông H đã đề nghị được trả nợ dần rất nhiều lần nhưng cũng không thực hiện được, vì thế nguyên đơn không chấp nhận đề nghị của ông H về việc cho thanh toán dần số tiền còn nợ và giảm, miễn số tiền lãi.

Quá trình giải quyết tại Tòa án, bị đơn - ông H trình bày: Ngày 14/11/2016, ông Hoàn có ký kết với Ngân hàng (viết tắt là V) hợp đồng cho vay bán lẻ số 16164/PGDPD/VCBHD để kinh doanh gỗ và sản xuất đồ mộc dân dụng các loại. Số tiền cho vay là 350.000.000đ. Thời hạn 06 tháng kể từ ngày rút vốn đến ngày bên vay trả nợ xong tính cho từng lần rút vốn (theo từng giấy nhận nợ). Lãi suất 8,5%/năm và được điều chỉnh theo thông báo của bên cho vay tại thời điểm rút vốn và cố định trong suốt thời gian nhận nợ. Lãi suất quá hạn là 140% lãi suất cho vay trong hạn.

Ông H đã nhận đủ số tiền 350.000.000đ bằng tiền mặt. Sau khi được vay vốn, ông Hoàn đã sử dụng vào mục đích kinh doanh gỗ và đồ mộc. Tuy nhiên, do làm ăn khó khăn, thua lỗ nên ông H đã chậm trả nợ cho V. Ông H đã trả được một số tiền gốc. Về số nợ gốc và lãi mà V yêu cầu ông H phải trả, ông H không có thắc mắc gì. Ông H đề nghị V cho trả dần mỗi tháng với số tiền là 50.000.000đ. Miễn cho ông H toàn bộ số tiền lãi phát sinh vì hiện nay công việc kinh doanh của ông H rất khó khăn.

Tài sản bảo đảm nghĩa vụ trả nợ cho khoản vay theo hợp đồng trên là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất mang tên ông K và bà T. Ngày 15/11/2016, ông K và bà T đã ký kết hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 16164/TC/PGDPD/NHNTHD với V. Tài sản thế chấp theo Hợp đồng nêu trên là thửa đất có số thửa 978, tờ bản đồ số 02, diện tích 159m2, loại đất ở nông thôn. Địa chỉ thửa đất: Thôn H, xã C, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Đất đã có giấy CNQSDĐ số CD 794094 do UBND huyện Cẩm Giàng cấp ngày 27/01/2016 cho ông Kiên và bà Toan. Trên đất hiện nay không có tài sản gì.

Theo ông H được biết, khi ký kết hợp đồng thế chấp, ông K và bà T hoàn toàn tự nguyện, hợp đồng thế chấp có được công chứng và có đăng ký giao dịch bảo đảm tại cơ quan có thẩm quyền.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trình bày:

Ngày 15/11/2016, ông K và bà T ký Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 16164/TCP/PGDPD với Ngân hàng (V) để đảm bảo cho khoản vay của ông H theo hợp đồng cho vay bán lẻ số 16164/PGDPD/VCBHD ngày 14/11/2016. Theo hợp đồng thế chấp, ông K và bà T thế chấp quyền sử dụng đất thửa đất có số thửa 978, tờ bản đồ số 02, diện tích 159m2, địa chỉ: Thôn H, xã C, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Đất đã được UBND huyện Cẩm Giàng cấp GCNQSDĐ có số CD 794094, số vào số cấp GCN là CH00268/CĐ-CG ngày 27/01/2016 cho ông K và bà T. Trên đất hiện nay không có tài sản gì, không tranh chấp với ai.

Việc ký kết hợp đồng thế chấp giữa ông K bà T với V là hoàn toàn tự nguyện, không có sự ép buộc, không có sự lừa dối. Hợp đồng có công chứng và có đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật.

Nay V khởi kiện yêu cầu ông Hoàn phải thanh toán số tiền còn nợ tạm tính đến ngày 15/4/2020 là 306.000.000đồng tiền nợ gốc, 67.146.993đồng tiền nợ lãi trong hạn, 26.705.794đồng tiền nợ lãi quá hạn. Trong trường hợp ông H không thanh toán được số tiền nợ trên, VCB yêu cầu ông K và bà T phải thực hiện cam kết trong Hợp đồng thế chấp. Quan điểm của ông K và bà T: Ông K và bà T không vay tiền nên không đồng ý để V xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất nêu trên của ông K và bà T. Yêu cầu ông H phải thanh toán trả nợ cho V và trả lại tài sản cho ông K và bà T.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Giữa nguyên đơn và ông H đã ký kết hợp đồng cho vay bán lẻ 16164/PGDPD/VCBHD ngày 14/11/2016 và giấy nhận nợ số 02 ngày ngày 31/5/2017. Theo đó, nguyên đơn đã cho ông H vay số tiền gốc là 350.000.000đ. Ông H đã thanh toán được 79.043.414đồng tiền gốc. Nguyên đơn yêu cầu ông H thanh toán trả nguyên đơn số tiền còn nợ gốc là 270.956.586đ, tiền lãi trong hạn là 77.943.518đ, tiền lãi quá hạn là 30.964.850đ (tính đến ngày 24/9/2020). Cộng bằng 379.864.954đ. Trường hợp ông H không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ khoản tiền trên, nguyên đơn đề nghị Tòa án xử lý tài sản thế chấp của ông K và bà T theo quy định.

Ông H; Ông K và bà T vắng mặt nên không có quan điểm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương tham gia phiên tòa, phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án và các đương sự: Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án chấp hành đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn chấp hành đầy đủ quy định của pháp luật. Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chưa chấp hành đầy đủ quy định của pháp luật.

Về nội dung: Đề nghị áp dụng Điều 117, Điều 317, Điều 318, Điều 319, Điều 320; Điều 429; Điều 463; Điều 466; Điều 468 Bộ luật dân sự; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Luật các tổ chức tín dụng; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Nghị định 163/2006/NĐ- CP ngày 29/12/2006 và Nghị định 11/2012/NĐ- CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm:

Chp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân buộc ông H phải trả cho Ngân hàng số tiền nợ gốc và tiền lãi phát sinh trong hạn, quá hạn theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp ông H không trả nợ, Ngân hàng được quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền kê biên, phát mại tài sản bảo đảm. Nếu số tiền thu được từ việc phát mại tài sản thế chấp không đủ thanh toán hết khoản nợ thì ông H vẫn phải tiếp tục trả hết số nợ còn lại cho Ngân hàng. Nếu số tiền thu được từ việc phát mại tài sản thế chấp vượt quá số tiền phải thanh toán thì Ngân hàng và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải hoàn trả cho người sử dụng hợp pháp số tiền vượt quá.

* Về án phí: Đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được tranh tụng tại phiên tòa, bài phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được tống đạt hợp lệ văn bản tố tụng của Tòa án để tham gia tố tụng tại phiên tòa hai lần hợp lệ, ông H vẫn vắng mặt, ông K và bà T đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2]. Quan hệ pháp luật và thẩm quyền: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ông Hthanh toán khoản nợ đã được giải ngân theo hợp đồng cho vay bán lẻ, giấy nhận nợ. Mục đích vay vốn là bổ sung vốn kinh doanh đồ gỗ và sản xuất đồ mộc dân dụng các loại. Trong trường hợp ông H không thanh toán được khoản nợ thì đề nghị ông K bà T bàn giao tài sản đã thế chấp cho nguyên đơn để tự nguyên đơn xử lý thu hồi nợ hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền phát mại tài sản thu hồi nợ cho nguyên đơn. Căn cứ khoản 1 Điều 30; điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Quan hệ tranh chấp được xác định là Tranh chấp Hợp đồng tín dụng, Hợp đồng thế chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.

[3]. Về Hợp đồng tín dụng (Hợp đồng cho vay bán lẻ): Ngày 14/11/2016, Ngân hàng (viết tắt là V) và ông Hđã tự nguyện thỏa thuận và ký kết hợp đồng cho vay bán lẻ số 16164/PGDPD/VCBHD, mục đích vay vốn của ông H là để kinh doanh gỗ và sản xuất đồ mộc dân dụng các loại. Số tiền cho vay: 350.000.000đ. Thời hạn vay:

06 tháng kể từ ngày rút vốn đến ngày bên vay trả nợ xong tính cho từng lần rút vốn (theo từng giấy nhận nợ). Lãi suất 8,5%/năm và được điều chỉnh theo thông báo của bên cho vay tại thời điểm rút vốn và cố định trong suốt thời gian nhận nợ. Lãi suất quá hạn là 140% lãi suất cho vay trong hạn.

Ông H đã nhận đủ số tiền được V giải ngân là 350.000.000đồng và đã thanh toán trả cho V được 79.043.414đ tiền gốc. Do ông H đã vi phạm cam kết trong hợp đồng đã ký dẫn đến nợ xấu. Khoản vay đã chuyển sang nợ quá hạn từ ngày 30/11/2017.

Như vậy, hợp đồng tín dụng nêu trên được các bên tự nguyện ký kết, nội dung và hình thức phù hợp pháp luật dân sự, các bên đã thực hiện hợp đồng mà không có ý kiến phản đối các điều khoản của hợp đồng. Do đó, Hợp đồng tín dụng, giấy nhận nợ đã phát sinh hiệu lực. Ông H không thanh toán được nợ cho V đúng hạn, đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ trong nhiều tháng. V khởi kiện yêu cầu ông H phải thanh toán trả V số tiền nợ gốc là 270.956.586đ, tiền lãi trong hạn là 77.943.518đ, tiền lãi quá hạn là 30.964.850đ (tính đến ngày 24/9/2020), cộng bằng 379.864.954đ là có căn cứ.

Ông H không thắc mắc về số tiền gốc và lãi V yêu cầu thanh toán và chấp nhận toàn bộ yêu cầu của V về khoản nợ gốc, nợ lãi.

V và ông H không thống nhất được với nhau về thời gian thanh toán nợ. phương thức trả nợ và việc miễn số tiền lãi quá hạn, giảm tiền lãi trong hạn.

HĐXX thấy có căn cứ chấp nhận yêu cầu của V. Xác định ông H còn nợ và phải thanh toán cho V số tiền nợ gốc là 270.956.586đ, tiền lãi trong hạn là 77.943.518đ, tiền lãi quá hạn là 30.964.850đ (tính đến ngày 24/9/2020). Cộng bằng 379.864.954đ. Kể từ ngày 25/9/2020, ông H còn phải tiếp tục chịu tiền lãi trên số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo lãi suất thoả thuận tại hợp đồng hợp đồng cho vay bán lẻ số 16164/PGDPD/VCBHD, giấy nhận nợ cho đến khi tất toán xong khoản nợ. Về thời hạn trả nợ: Buộc ông H phải thanh toán khoản nợ trên cho V một lần và đầy đủ số tiền gốc lãi nêu trên.

[4] Về hợp đồng thế chấp: Ngày 15/11/2016, ông K và bà T ký Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 16164/TCP/PGDPD với Ngân hàng (V) để đảm bảo cho khoản vay của ông H theo hợp đồng cho vay bán lẻ số 16164/PGDPD/VCBHD ngày 14/11/2016. Theo hợp đồng thế chấp, ông K và bà T thế chấp quyền sử dụng đất đối với thửa đất có số thửa 978, tờ bản đồ số 02, diện tích 159m2, địa chỉ: thôn H, xã C, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Đất đã được UBND huyện Cẩm Giàng cấp GCNQSDĐ có số CD 794094, số vào số cấp GCN là CH00268/CĐ-CG ngày 27/01/2016 cho ông K và bà T. Trên đất hiện nay có 03 khóm chuối. Ngoài ra không có tài sản gì khác, đất không tranh chấp với ai.

HĐXX thấy: Các đương sự đều thừa nhận việc ký kết hợp đồng thế chấp giữa ông K bà T để đảm bảo khoản vay của ông H với V là hoàn toàn tự nguyện, không có sự ép buộc, không có sự lừa dối. Hợp đồng có công chứng và có đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật. Do đó, hợp đồng thế chấp nêu trên có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu của V: trong trường hợp ông H không thanh toán được hoặc thanh toán không đầy đủ khoản tiền đã vay nêu trên thì ông K và bà T phải giao tài sản đã thế chấp cho V để V tự xử lý thu hồi nợ hoặc V có quyền đề nghị cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền kê biên, phát mại thu hồi nợ cho V.

[5] Toàn bộ số tiền thu được từ việc xử lý tài sản bảo đảm được thanh toán nghĩa vụ trả nợ của ông H đối với V. Nếu số tiền thu được không đủ để thanh toán thì ông H tiếp tục có nghĩa vụ thanh toán khoản nợ còn lại cho V. Nếu còn dư, sẽ được trả lại cho ông K và bà T.

[6] Về chi phí thẩm định: V tự nguyện chịu toàn bộ chi phí thẩm định tài sản thế chấp nên HĐXX chấp nhận.

[7] Về án phí: Ông H phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm. H trả V tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Bi các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: Các Điều 318, 319, 323, 325, 351, 385, 386, 388, 463, 465, 466 Bộ luật dân sự 2015.

Khon 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 91, Điều 97, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Các Điều 90, 91, 94, 95 Luật các tổ chức tín dụng.

Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng đối với ông H về khoản tiền nợ gốc, tiền lãi trong hạn, tiền lãi quá hạn.

3. Buộc ông H phải trả cho Ngân hàng số tiền nợ theo Hợp đồng cho vay bán lẻ số 16164/PGDPD/VCBHD ngày 14/11/2016 và giấy nhận nợ (tính đến hết ngày 24/9/2020) là:

- Nợ gốc: 270.956.586 đồng.

- Tiền lãi trong hạn là 77.943.518đồng và tiền nợ lãi quá hạn là 30.964.850đồng.

- Tổng nợ là: 379.864.954đồng.

(Bằng chữ: Ba trăm bảy mươi chín triệu tám trăm sáu mươi bốn nghìn chín trăm năm mươi bốn đồng) Kể từ ngày 25/9/2020 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ, ông H còn tiếp tục phải trả tiền lãi phát sinh cho Ngân hàng trên số dư nợ gốc chưa thanh toán theo lãi suất thỏa thuận tại Hợp đồng cho vay bán lẻ số 16164/PGDPD/VCBHD ngày 14/11/2016 và giấy nhận nợ số 02 ngày ngày 31/5/2017.

4. Trong trường hợp ông H không thanh toán được hoặc thanh toán không đủ khoản nợ trên thì ông K và bà T phải giao tài sản thế chấp cho Ngân hàng để Ngân hàng tự xử lý thu hồi nợ. Hoặc Ngân hàngcó quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền kê biên, phát mại các tài sản thế chấp để thu hồi nợ, đối với tài sản là: Quyền sử dụng thửa đất có số thửa 978, tờ bản đồ số 02, diện tích 159m2, địa chỉ: Thôn Hò, xã C, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Đất đã được UBND huyện Cẩm Giàng cấp GCNQSDĐ có số CD 794094, số vào số cấp GCN là CH00268/CĐ- CG ngày 27/01/2016 cho ông K và bà T. Trên đất có 03 khóm chuối và không có công trình, tài sản gì khác.

5. Trong trường hợp phát mại tài sản, chủ sở hữu và những người đang quản lý tài sản thế chấp phải bàn giao tài sản thế chấp cho Ngân hàng hoặc cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền để xử lý theo quy định của pháp luật.

6. Trường hợp toàn bộ khối tài sản thế chấp sau khi xử lý phát mại mà không đủ để thanh toán nợ cho Ngân hàng thì ông H còn tiếp tục phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng cho đến khi tất toán khoản vay. Nếu còn dư thì thanh toán trả lại cho ông K và bà T.

7. Về án phí: Ông H phải chịu 18.993.000đồng án phí Kinh doanh thương mại sơ thẩm.

Hoàn trả Ngân hàng số tiền tạm ứng án phí 19.995.000đồng đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số AA/2018/0000063 ngày 18/5/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cẩm Giàng, do chị N nộp thay.

8. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

9. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hánh án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1003
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2020/KDTM-ST ngày 24/09/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng; hợp đồng thế chấp

Số hiệu:04/2020/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Giàng - Hải Dương
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 24/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về