Bản án 04/2020/HS-ST ngày 16/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 04/2020/HS-ST NGÀY 16/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 03/2020/TLST-HS ngày 09/10/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2020/QĐXXST- HS ngày 03/11/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lý Phẩy P; sinh ngày 11/4/1984 tại huyện N, tỉnh Điện Biên; Nơi cư trú: Bản D, xã H, huyện N, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm nương; Trình độ học vấn: Không; Dân tộc: Dao; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lý Sểnh G (đã chết) và bà Lý Mẩy T; Bị cáo có chồng là Lý V và 03 con; Tiền sự: Không; Tiền án: có 01 tiền án. Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 24/6/2020, sau đó tạm giam từ ngày 30/6/2020 cho tới nay, có mặt.

Ngưi bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị Thu Huyền, sinh năm 1992 – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 10 phút, ngày 24/6/2020, tổ công tác Công an xã H làm nhiệm vụ tại khu vực bản S, xã H, huyện N, tỉnh Điện Biên, phát hiện Lý Phẩy P đang ngồi trong nhà ông Phùng Chàn Q có biểu hiện vi phạm pháp luật. Sau khi tổ công tác vào nhà để kiểm tra, Lý Phẩy P đã tự giác lấy trong túi quần bên phải đang mặc trên người ra 01 gói nilon màu trắng bên trong có 13 gói nilon đều chứa chất bột dạng nén màu trắng đục giao nộp cho tổ công tác. Sau đó, tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng là 01 gói nilon màu trắng mở bên trong có 13 gói đều chứa chất bột dạng nén màu trắng đục, trong đó có 06 gói được gói bằng nilon màu hồng và 07 gói được gói bằng nilon màu trắng. Tổ công tác đã đưa người bị bắt và vật chứng về Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N để điều tra làm rõ, xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại cơ quan điều tra Lý Phẩy P khai nhận: Gói nilon màu trắng bên trong có 13 gói nhỏ đều chứa chất bột dạng nén màu trắng đục mà tổ công tác thu giữ là Heroine của Lý Phẩy P mua của 01 người phụ nữa dân tộc Dao khoảng 60 tuổi, không quen biết vào khoảng 08 giờ 00 phút, ngày 24/6/2020 tại khu vực bản S, xã H, huyện N, tỉnh Điện Biên với giá 500.000 đồng. Sau khi mua được Heroine, P cất giấu trong túi quần bên trái đang mặc rồi đi bộ về nhà ông Phùng Chàn Q ở bản S, xã H. Về tới nhà Phùng Chàn Q, P dùng dao lam cắt cục Heroine mua được thành 13 cục nhỏ và lấy nilon màu hồng gói 06 cục nhỏ thành 06 gói, lấy nilon màu trắng gói 07 cục nhỏ thành 07 gói, rồi dùng nilon màu trắng gói tất cả 13 gói, cất giấu trong túi quần bên phải đang mặc. Đến 10 giờ 10 Pt ngày 24/6/2020 thì bị tổ công tác Công an xã H phát hiện, bắt quả tang.

Tại Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng ngày 25/6/2020 của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N xác định: 13 gói vật chứng chứa chất bột dạng nén màu trắng đục thu giữ của Lý Phẩy P có khối lượng 0,8 (không phẩy tám) gam, lấy mẫu giám định 0,1 (không phẩy một) gam, còn lại 0,7 (không phẩy bẩy) gam.

Tại Bản kết luận giám định số: 609/GĐ-PC09, ngày 02/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: "Mẫu chất bột màu trắng, trích ra từ vật chứng thu giữ của Lý Phẩy P gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine. Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 9, Mục IA, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018… Không hoàn lại đối tượng giám định".

Tại bản Cáo trạng số 55/CT-VKS-NP ngày 09/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh Điện Biên đã truy tố bị cáo Lý Phẩy P về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Lý Phẩy P đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình phù hợp với bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N giữ quyền công tố và kiểm sát xét xử luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Lý Phẩy P về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật Hình sự; đề nghị xử phạt bị cáo Lý Phẩy P từ 18 tháng đến 24 tháng tù; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu huỷ 0,7 gam Heroine còn lại sau khi đã lấy mẫu giám định và toàn bộ nilon, phong bì niêm phong cũ. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền và miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật đối với bị cáo.

Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo nhất trí với luận tội của vị đại diện Viện kiểm sát về tội danh, điều luật và mức hình phạt và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét nguyên nhân, hoàn cảnh phạm tội của bị cáo, áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự cho bị cáo, xử phạt bị cáo mức thấp nhất theo đề nghị của Kiểm sát viên là 18 tháng tù; Đề nghị miễn hình phạt bổ sung và án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo Lý Phẩy P nhất trí với luận tội của vị đại diện Viện kiểm sát, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì thêm và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tội danh và điều luật Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố đối với bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo Lý Phẩy P thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình: Vào hồi 10 giờ 10 phút, ngày 24/6/2020, Lý Phẩy P đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,8 (không phẩy tám) gam Heroine cất giấu trong túi quần bên phải đang mặc, tại nhà của ông Phùng Chàn Q ở bản S, xã H, huyện N, tỉnh Điện Biên. Mục đích bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy là để sử dụng cho bản thân vì bị cáo là người nghiện ma túy. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ.

Do đó, đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lý Phẩy P phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:… c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

[2] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn, xâm phạm đến sự độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Hành vi của bị cáo còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự xã hội trên địa bàn xã H, huyện N vì ma túy không chỉ gây hủy hoại sức khỏe của con người mà còn là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội khác. Bản thân bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, không bị ai xúi giục. Do đó, cần phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian, để bị cáo có điều kiện cải tạo bản thân trở thành người có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời làm gương răn đe giáo dục các đối tượng khác đang và đã có hành vi như bị cáo nhưng chưa bị phát hiện, xử lý.

[3] Về nhân thân: Bị cáo Lý Phẩy P xuất thân trong gia đình nông dân, nhưng không chịu lao động, sống buông thả nên đã nghiện ma túy. Năm 2017 bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện N xử phạt 28 (hai mươi tám) tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Sau khi chấp hành xong hình phạt tù, trở về địa phương sinh sống, bị cáo không chịu tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà vẫn tiếp tục tái nghiện. Ngày 24/6/2020, bị cáo lại tiếp tục phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy khi chưa được xóa án tích. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo để bị cáo có thời gian cải tạo, cai nghiện.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Khi bị bắt giữ bị cáo luôn thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội. Tại phiên tòa, bị cáo cũng đã thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Tại bản án số 32/2017/HSST, ngày 16/3/2017, bị cáo Lý Phẩy P bị Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Điện Biên xử phạt 28 (hai mươi tám) tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Đến ngày 15/01/2019 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương sinh sống. Ngày 24/6/2020, bị cáo tiếp tục phạm tội trong vụ án này. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội mới do lỗi cố ý khi chưa được xóa án tích, do đó bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự thuộc trường hợp tái phạm.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự thì “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, bị cáo là người nghiện ma túy, nghề nghiệp chính là làm nương, thu nhập không ổn định, gia đình bị cáo là hộ nghèo, bị cáo không có tài sản riêng có giá trị nên bị cáo không có khả năng thi hành hình phạt bổ sung là phạt tiền. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng của vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định: Tịch thu tiêu hủy vật chứng là Heroine và toàn bộ nilon, phong bì niêm phong cũ.

Đối với chiếc dao lam, bị cáo khai nhận, sau khi sử dụng để cắt cục Heroine đã vứt ở bãi đất trống trước nhà Phùng Chàn Q, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã truy tìm vật chứng nhưng không tìm thấy, nên Hội đồng xét xử không có cơ sở xem xét.

[7] Xét đề nghị của người bào chữa: Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo nhất trí với luận tội của vị đại diện Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng đối với bị cáo. Người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, nguyên nhân hoàn cảnh phạm tội để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và đề nghị miễn hình phạt bổ sung, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo là có cơ sở nên Hội đồng xét xử sẽ xem xét.

[8] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên và người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[9] Trong vụ án Lý Phẩy P khai nhận đã mua Heroine của 01 người phụ nữ dân tộc Dao, khoảng 60 tuổi vào sáng ngày 24/6/2020 tại khu vực bản S, xã H, huyện N, tỉnh Điện Biên. Do bị cáo không biết tên, địa chỉ của người phụ nữ này ở đâu nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N không có căn cứ để điều tra, làm rõ xử lý theo quy định, Hội đồng xét xử không có cơ sở xem xét.

Đối với ông Phùng Chàn Q, qua điều tra làm rõ, khi bị cáo vào nhà ông Phùng Chàn Q ở bản S, xã H để chia nhỏ Heroine, ông Quáng đang ngủ, không biết việc bị cáo vào nhà mình thực hiện hàng vi tàng trữ trái phép chất ma túy nên Hội đồng xét xử không xem xét trách nhiệm.

[10] Về án phí hình sự sơ thẩm: Tại phiên tòa bị cáo đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo. Căn cứ vào Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo là dân tộc thiểu số (dân tộc Dao) sống tại xã H, huyện N là xã có điều kiện - xã hội đặc biệt khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[11] Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật hình sự;

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lý Phẩy P phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

2. Về hình phạt: Xử phạt phạt bị cáo Lý Phẩy P 22 (hai mươi hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 24/6/2020.

3. Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ 0,7 (không phẩy bẩy) gam Heroine còn lại sau khi đã lấy mẫu giám định và toàn bộ nilon, phong bì niêm phong cũ.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lý Phẩy P.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo Lý Phẩy P được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án 16/11/2020./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2020/HS-ST ngày 16/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:04/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nậm Bồ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về