Bản án 04/2020/HS-ST ngày 12/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN GIÁO - TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 04/2020/HS-ST NGÀY 12/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 05/2020/TLST-HS ngày 19 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Cà Văn T; tên gọi khác: Không.

Sinh ngày: 20/10/1998, tại: Xã C, huyện T, tỉnh Điện Biên.

Nơi cư trú: Bản H, xã C, huyện T, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hóa: Lớp 11/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Cà Văn T, sinh năm 1973 và con bà Lường Thị H sinh năm 1973; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bị cáo chưa bị xét xử và xử phạt vi phạm hành chính; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/8/2020, tạm giam ngày 18/8/2020 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

* Người có nghĩa vụ liên quan: Bà Quàng Thị O, sinh năm 1987; Nơi cư trú: Bản H, xã C, huyện T, tỉnh Điện Biên, (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ, ngày 16/8/2020, bị cáo Cà Văn T đi bộ từ nhà ở bản H, xã C, huyện T, tỉnh Điện Biên, đi ra khu vực Bản B, xã C, huyện T để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đi đến cầu bản B, xã C, bị cáo gặp một người đàn ông khoảng 27 tuổi bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ, gặp người đàn ông đó bị cáo hỏi:Anh có biết chỗ nào bán Heroine không?”, người đàn ông trả lời và hỏi: “Có, muốn mua bao nhiêu tiền”, bị cáo nói: Anh lấy cho em ba trăm nghìn”, nói xong bị cáo lấy trong túi quần ra đưa cho người đàn ông đó 300.000đ (ba trăm nghìn đồng). Người đàn ông nhận tiền rồi đi về hướng xã B, huyện M, khoảng 15 phút sau thì quay lại lấy trong túi quần ra đưa cho bị cáo 01 gói nilon màu xanh, bị cáo mở ra xem thấy bên trong có chứa chất bột màu trắng bị cáo biết đó là Heroine. Bị cáo cầm gói Heroine rồi cất vào túi quần bên phải đang mặc rồi đi về nhà còn người đàn ông đó đi đâu bị cáo không biết. Việc trao đổi mua bán Heroine diễn ra tại khu vực cầu Bản B, xã C, chỉ có bị cáo và người đàn ông đó biết, ngoài ra không có ai biết và tham gia cùng. Khi về đến khu vực bản H xã C, bị cáo đi vào quán của nhà ông Cà Văn T, bà Quàng Thị O để mua mỳ tôm ăn. Đến khoảng 12 giờ 50 phút ngày 16/8/2020, trong lúc bị cáo đang ngồi pha mỳ tôm tại bàn uống nước nhà ông Cà Văn T, bà Quàng Thị O thì tổ công tác Công an huyện Tuần Giáo đến yêu cầu bị cáo có gì liên quan đến ma túy mang ra giao nộp. Bị cáo đã tự giác lấy trong túi quần bên phải đang mặc ra giao nộp cho tổ công tác 01 gói Heroine được gói bằng nilon màu xanh có khối lượng 1,81 gam, bị cáo mua về để sử dụng. Tổ công tác đã mời người làm chứng lập biên bản bắt người phạm tội quả tang thu giữ và niêm phong vật chứng và dẫn giải bị cáo về Cơ quan điều tra - Công an huyện Tuần Giáo để điều tra làm rõ.

Tại bản Kết luận giám định số: 798/GĐ-PC09 ngày 26/8/2020 của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Điện Biên kết luận: “Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Cà Văn T gửi giám định là chất ma tuý: Loại Heroine; khối lượng vật chứng thu giữ của Cà Văn T là 1,81 gam” Tại bản Cáo trạng số: 83/CT-VKSTG ngày 19 tháng 10 năm 2020, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đã truy tố bị cáo Cà Văn T về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại Cơ quan Điều tra và phiên tòa hôm nay bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố.

Thực hành quyền công tố tại phiên tòa: Kiểm sát viên giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249, Điểm p, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Không phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Đề nghị tuyên tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong màu trắng, các mép đều được dán kín bên trong có chứa 1,7 gam Heroine đựng trong một túi nilon màu xanh gắn kín lại, 01 mảnh nilon màu xanh, 01 vỏ phong bì dùng để niêm phong vật chứng. Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo hoàn toàn nhất trí với bản Cáo trạng và không có ý kiến tranh luận đối với bản luận tội của Kiểm sát viên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Ngoài xin giảm nhẹ hình phạt bị cáo không có ý kiến gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi của bị cáo: Khoảng 12 giờ, ngày 16/8/2020, bị cáo Cà Văn T mua 01 gói Heroine với số tiền là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) của một người đàn ông không quen biết tại khu vực cầu bản B, xã C, huyện T, mục đích để sử dụng. Sau khi mua được Heroine bị cáo đi về vào quán nhà ông Cà Văn T, bà Quàng Thị O mua mỳ tôm ăn, đến khoảng 12 giờ 50 phút cùng ngày 16/8/2020 bị cáo đang ngồi pha mỳ tôm tại bàn uống nước nhà ông Cà Văn T, bà Quàng Thị O bị tổ công tác Công an huyện Tuần Giáo bắt quả tang thu giữ 01 gói Heroine. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hành vi của bị cáo Cà Văn T đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều 249 Bộ luật Hình sự. Bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về khối lượng Heroine là 1,81 gam. Vì vậy, Cáo trạng truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo là người có đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của bị cáo. Hội đồng xét xử kết luận: Bị cáo Cà Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[2] Về tính chất và mức độ của vụ án: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Hành vi của bị cáo trực tiếp, tiếp tay cho những người chuyên mua bán trái phép các chất ma túy tồn tại và phát triển; là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm .... làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội trên địa bàn huyện Tuần Giáo nói riêng và tỉnh Điện Biên nói chung. Tội phạm mà bị cáo thực hiện là tội phạm nghiêm trọng. Vì vậy hành vi của bị cáo cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật, mới có tác dụng phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tội phạm.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân: Tại giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo và là người khuyết tật nặng; nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm p, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự. Bị cáo từ nhỏ sống phụ thuộc vào gia đình tại xã C, huyện T, tỉnh Điện Biên, được đi học đến lớp 11, sau đó nghỉ học ở nhà lao động sản xuất; tháng 4 năm 2020 nghiện chất ma túy. Cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo thông qua hình phạt để răn đe, giáo dục bị cáo trở thành người lương thiện, có ý thức tuân thủ pháp luật, đồng thời giúp bị cáo cai nghiện chất ma túy.

[4] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Xét thấy nghề nghiệp của bị cáo là sản xuất nông nghiệp, sống ở xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, nên không có khả năng thi hành. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Kiểm sát viên đề nghị xử phạt đối với bị cáo: Xét thấy đề nghị của Kiểm sát viên về mức hình phạt đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy là phù hợp với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo, nên cần chấp nhận.

[6] Các vấn đề khác:

Đối với chủ quán ông Cà Văn T, bà Quàng Thị O nơi bị cáo bị bắt quả tang khi đang pha mỳ tôm. Xét thấy ông Cà Văn T không có mặt ở quán, còn bà Quàng Thị O không biết bị cáo Tàng trữ trái phép chất ma túy và không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo, do bị cáo không biết rõ họ tên, tuổi, địa chỉ của hai người này. Cơ quan điều tra - Công an huyện Tuần Giáo không có căn cứ để điều tra làm rõ, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Vật chứng vụ án: Đối với 01 gói niêm phong màu trắng, các mép đều được dán kín bên trong có chứa 1,7 gam Heroine đựng trong một túi nilon màu xanh gắn kín lại, 01 mảnh nilon màu xanh, 01 vỏ phong bì dùng để niêm phong vật chứng cần tịch thu và tiêu hủy theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[8] Về hành vi và các quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Tuần Giáo; Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan đã thực hiện đều hợp pháp và được chấp nhận.

[9] Án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, là hộ nghèo và đã có đơn xin miễn án phí; theo quy định tại Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo được miễn nộp toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố:

1. Về tội danh: Bị cáo Cà Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249, Điểm p, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Cà Văn T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/8/2020.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điểm a, c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong màu trắng, các mép đều được dán kín bên trong có chứa 1,7 gam Heroine đựng trong một túi nilon màu xanh gắn kín lại, 01 mảnh nilon màu xanh, 01 vỏ phong bì dùng để niêm phong vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 26/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuần Giáo.

4. Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo được miễn nộp toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 12/11/2020).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

268
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2020/HS-ST ngày 12/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:04/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:12/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về