Bản án 04/2020/HS-ST ngày 10/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 04/2020/HS-ST NGÀY 10/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 06/2020/TLST-HS ngày 13 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2020/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Giàng A L (tên gọi khác: Không), sinh ngày 12 tháng 6 năm 1988 tại huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Bản Kh, xã Chiềng V, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 3/12; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Giàng A Nh, sinh năm 1950 (đã chết) và bà Vàng Thị C, sinh năm 1952 (đã chết); Bị cáo có vợ Sồng Thị S, sinh năm 1987; chưa có con; tiền án: Có 01 tiền án ngày 26/9/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La xử phạt 24 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy; tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 06 tháng 7 năm 2020 đến nay. Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Trần Bích L - Luật sư công tác viên của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La. Địa chỉ: Tiểu khu 3, thị trấn Hát L, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 15 giờ 00 ngày 06/7/2020, Tổ công tác Công an xã Chiềng V, huyện Mai Sơn làm nhiệm vụ tại khu vực bản Kh, xã Chiềng V, huyện Mai Sơn phát hiện bắt quả tang Giàng A L đang có hành vi cất giấu trái phép chất ma tuý.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói nilon màu xanh, lớp tiếp theo là nilon màu hồng, bên trong chứa chất bột nén màu trắng (L tự giác lấy ở dưới lòng bàn chân trái ra giao nộp khai nhận là ma túy).

Ngoài ra còn tạm giữ: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu bontel màu đen kèm theo 01 sim điện thoại.

Quá trình điều tra, Giàng A L khai nhận hành vi phạm tội như sau: Ngày 30/6/2020 Giàng A L đi bộ từ nhà ở bản Kh, xã Chiềng V, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La đến khu vực bản Lọng H, xã Phiêng C, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La gặp và mua được của một người đàn ông không quen biết 01 gói ma túy với giá 50.000 đồng. Mua được ma túy L mang về nhà lấy một ít ra sử dụng, phần còn lại L cất vào túi áo ngực. Đến khoảng 16 giờ ngày 6/7/2020 L đem theo gói ma túy đi tìm cây hoa phong lan tại khu vực bản Kh, xã Chiềng V, huyện Mai Sơn thì bị bị tổ Công an xã Chiềng Ve, huyện Mai Sơn phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Ngày 06/7/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Mai Sơn đã thành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng và lấy mẫu gửi giám định vật chứng, kết quả: Chất bột nén màu trắng có khối lượng là 0,08 gam, trích rút toàn bộ 0,08 gam ký hiệu M, làm mẫu trưng cầu giám định ma túy.

Tại bản kết luận giám định số 1181/KLMT ngày 13/7/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu M là ma tuý; loại Heroine; tổng lượng ma tuý thu giữ là 0,08 gam; loại Heroine”. Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định.

Về nguồn gốc 0,08 gam Heroine Giàng A L khai mua của một người nam giới (không biết họ, tên, tuổi và địa chỉ) vào ngày 06/7/2020 tại khu vực bản Lọng Hỏm, xã Phiêng Cằm, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Ngoài lời khai của bị cáo, không còn nguồn tài liệu, chứng cứ nào khác để chứng minh, do đó Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Mai Sơn không có căn cứ để mở rộng điều tra vụ án.

Do có hành vi nêu trên tại bản Cáo trạng số 101/CT-VKSMS ngày 13/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La truy tố bị cáo Giàng A L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm a khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Giàng A L phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015:

Xử phạt bị cáo Giàng A L từ 12 (mười hai) tháng đến 15 (mười lăm) tháng tù.

Vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì do Công an huyện Mai Sơn phát hành, bên trong chứa 01 vỏ phong bì niêm phong bóc mở ban đầu, các mảnh nilon màu xanh, mảnh nilon màu hồng gói ma túy ban đầu.

Trả lại cho bị cáo Giàng A L: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu bontel vỏ màu đen, kèm 01 sim điện thoại máy đã qua sử dụng.

Bị cáo được miễn án phí theo quy định của pháp luật.

Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày lời bào chữa nhất trí với quan điểm truy tố, luận tội của Kiểm sát viên. Tuy nhiên, luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến nguyên nhân, điều kiện dẫn đến việc thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo. Bị cáo là dân tộc tiểu số, sinh sống ở vùng đặc biệt khó khăn, nhận thức pháp luật phần nào bị hạn chế, gia đình bị cáo thuộc diện hộ nghèo. Do đó, đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa, bị cáo Giàng A L nhận tội, nhất trí với lời bào chữa của Luật sư không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát, đề nghị ội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra - Công an huyện Mai Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay, qua xét hỏi bị cáo Giàng A L khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát huyện Mai Sơn đã truy tố đối với bị cáo. Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và phù lợp với các tài liệu chứng cứ khác mà Cơ quan điều tra đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở pháp lý kết luận:

Ngày 06/7/2020, Giàng A L đã có hành vi cất giấu trái phép 0,08 gam Heroine với mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang tại khu vực bản Khiềng, xã Chiềng Ve, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.

Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ: Lời khai nhận tội của bị cáo; Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 16 giờ 00 phút ngày 06/7/2020 tại bản Khiềng, xã Chiềng Ve, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La đối với Giàng A L cùng vật chứng thu giữ là 0,08 gam Heroine; Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong kiểm tra vật chứng và niêm phong lại; Biên bản bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại; Kết luận giám định số 1181 ngày 13/7/2020 của phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Sơn La; Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của anh Lò Văn T, sinh năm 1980, trú tại bản Sươn M, xã Chiềng V, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La là người chứng kiến việc bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với kết luận điều tra.

Tổng khối lượng ma túy bị cáo Giàng A L tàng trữ là 0,08 gam Heroine. Mặc dù khối lượng ma túy tàng trữ chưa đủ để truy tố trách nhiệm hình sự (dưới 0,1 gam) nhưng bị cáo có 01 tiền án về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội, đây là tình tiết định tội nên Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, khung hình phạt có mức hình phạt tù từ 01 năm đến 5 năm và thuộc trường hợp nghiêm trọng là chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oai sai.

[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Hội đồng xét xử thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo nhận thức rõ tác hại của ma túy và hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện. Xét cần xử phạt nghiêm khắc nhằm trừng trị, giáo dục bị cáo, răn đe phòng ngừa chung.

[4] Xét tình tiết tặng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân xấu, có 01 tiền án về tội Tàng trữ trái phép được xóa án tích, tuy nhiên đã áp dụng làm tình tiết định tội nên không coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo là dân tộc tiểu số, sinh sống ở vùng kinh tế đặc biết khó khăn, trình độ văn hóa thấp, nhận thức pháp luật hạn chế đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa thấy rằng: Bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập, gia đình thuộc diện hộ nghèo, xét việc áp dụng hình phạt bổ sung không có khả năng thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo Giàng A L (L không biết rõ tên tuổi, địa chỉ). Ngoài lời khai của bị cáo không còn chứng cứ nào khác chứng minh, nên Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Mai Sơn không có căn cứ điều tra mở rộng vụ án. Do đó buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm về toàn bộ số ma tuý bị thu giữ.

[7] Vật chứng vụ án:

Đối với 01 (một) vỏ phong bì niêm phong bóc mở ban đầu; các mảnh nilon màu xanh, mảnh nilon màu hồng là vật bị cáo dùng để cất giấu sử dụng ma túy, vật không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu huỷ, theo điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu bontel vỏ màu đen, kèm 01 sim điện thoại. Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định đây là tài sản hợp pháp của bị cáo không liên qua đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo Giàng A L. Theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

[8] Về án phí: Do Bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, gia đình thuộc diện hộ nghèo cần miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015:

Tuyên bố bị cáo Giàng A L phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Giàng A L 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 06/7/2020).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì do Công an huyện Mai Sơn phát hành, bên trong chứa 01 vỏ phong bì niêm phong bóc mở ban đầu, các mảnh nilon màu xanh, mảnh nilon màu hồng gói ma túy ban đầu.

Trả lại cho bị cáo Giàng A L: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu bontel vỏ màu đen, kèm 01 sim điện thoại máy đã qua sử dụng.

(Số lượng, khối lượng, đặc điểm, tình trạng vật chứng, tài sản theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/11/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La).

Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội:

Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễm án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Giàng A L.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 10/11/2020)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2020/HS-ST ngày 10/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:04/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mai Sơn - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về