TÒA ÁNNHÂN DÂN THỊ XÃ PHƯỚC LONG, TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 04/2020/HS-ST NGÀY 09/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 09 tháng 12 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 06/2020/TLST-HS ngày 17 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2020/QĐXXST- HS ngày 24 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:
Nguyễn Thanh S; sinh năm: 1992; tại: Bình Phước;
HKTT: Khu phố 2, phường L, thị xã P, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hữu P và bà Phan Thị L; Bị cáo chưa có vợ và con; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/6/2020 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Người tham gia tố tụng khác:
Người làm chứng:
- Ông Trần Văn T1, sinh năm: 1974 (Vắng mặt)
- Ông Lê Hữu T2, sinh năm: 1980 (Vắng mặt)
Cùng địa chỉ: Khu phố 4, phường L, thị xã P, tỉnh Bình Phước.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do S là người sử dụng ma túy nên vào khoảng 12 giờ ngày 20/6/2020, S điều khiển xe môtô biển kiểm soát 93F8-2685, đến khu vực trước cổng cáp treo núi Bà Rá, thuộc khu phố 5, phường Thác Mơ, thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước, thấy 01 thanh niên đeo khẩu trang, dáng gầy, nghi là người nghiện ma túy nên S hỏi nội dung: Có bán ma túy đá không, bán cho S 500.000đ, thì người thanh niên này đồng ý. Sau khi nhận tiền, người này đi một lúc rồi quay lại đưa cho S 01 gói nylon bên trong chứa ma túy.
Nhận được tin báo của quần chúng nhân dân, đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an thị xã Phước Long phối hợp cùng Công an phường Long Thủy đã tiến hành tuần tra. Đến khoảng 12 giờ 45 cùng ngày, lực lượng Công an phát hiện S điều khiển xe môtô đang lưu thông trên đường Lý Thái Tổ, thuộc khu phố 4, phường Long Thủy, thị xã Phước Long nên yêu cầu S dừng xe để kiểm tra, phát hiện túi quần bên trái của S có 01 gói nylon dạng khóa miết kích thước (5x10) cm, bên trong có 01 cuộn giấy bạc quấn 01 gói nylon khác được hàn kín, bên trong chứa ma túy.
Lực lượng Công an đã lập biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, tạm giữ đối với Nguyễn Thanh S và niêm phong vật chứng.
Căn cứ Bản kết luận giám định số 145/2020/GĐ-MT ngày 23/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bình Phước kết luận: Tinh thể màu trắng có trong 01 gói nylon (ký hiệu M) được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là: 4,5488 gam (bốn phẩy năm bốn tám tám gam).
Hoàn lại đối tượng giám định: có khối lượng là: M = 4,1180 gam.
Tại bản Cáo trạng số 75/CTr-VKS, ngày 17-11-2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước truy tố đối với hành vi của bị cáo Nguyễn Thanh S về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, đề nghị xử phạt bị cáo S mức hình phạt 24 tháng tù giam đến 30 tháng tù giam.
Về xử lý vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 Đề nghị tuyên tịch thu tiêu hủy 01 (một) Phong bì ma túy sau giám định được Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước niêm phong số: 145 ngày 22/06/2020 có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Văn Hải, người chứng kiến Nguyễn Thanh S và cán bộ điều tra viên Lê Khắc Hoằng.
Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi đúng như bản cáo trạng đã truy tố và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Phước Long, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phước Long, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của người làm chứng về thời gian, địa điểm, hành vi phạm tội của bị cáo, đồng thời phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước cùng các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập lưu trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:
S là người nghiện ma túy nên vào ngày 20/6/2020, S đã hỏi mua 500.000 đ ma túy của một thanh niên không rõ nhân thân lai lịch, mụch đích để về sử dụng. Đến khoảng 12 giờ 45 phút cùng ngày, tại khu phố 4, phường Long Thủy, thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Phước Long bắt quả tang. Căn cứ vào kết luận giám định số 145/2020/GĐ-MT ngày 23/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bình Phước kết luận: Tinh thể màu trắng có trong 01 gói nylon (ký hiệu M) được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là: 4,5488 gam. Do vậy, Viện kiểm sát truy tố và luận tội bị cáo theo điểm c, khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã xội, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang cho người dân trên địa bàn xảy ra vụ án và đây cũng là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý, mặc dù khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo nhận thức được tác hại của chất ma túy, sẽ bị pháp luật xử lý nghiêm nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện để thỏa mãn lối sống sa đọa, hủy hoại chính tương lai và sức khỏe của bản thân bị cáo.
[3] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ là “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự cần áp dụng cho bị cáo khi lượng hình.
Với phân tích và nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử nhận thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để tạo điều kiện cho bị cáo có thời gian từ bỏ với ma túy, cải tạo bản thân thành người có ích cho gia đình và xã hội.
[4] Do bị cáo không có công việc và nguồn thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung tại khoản 5 Điều 249 đối với bị cáo.
[5] Xét các ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa:
Về quan điểm của Viện kiểm sát về tội danh, hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật nên được ghi nhận.
[6] Đối với đối tượng bán ma túy cho bị cáo do không xác định được nhân thân, lai lịch nên Hội đồng xét xử không có căn cứ xử lý, đề nghị Cơ quan Điều tra Công an thị xã Phước Long tiếp tục xác minh để xử lý sau.
[7] Đối với xe mô tô biển kiểm soát 93F8-2685 là của bà Phan Thị Liễu Cơ quan CSĐT công an thị xã Phước Long đã xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại cho bà Liễu, việc xử lý này là đúng nên Hội đồng xét xử không xét.
[8] Về xử lý vật chứng:
Cần tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì ma túy sau giám định được Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước niêm phong số: 145 ngày 22/06/2020 có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Văn Hải, người chứng kiến Nguyễn Thanh S và cán bộ điều tra viên Lê Khắc Hoằng.
[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Về hình phạt: Căn cứ điểm điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 32, Điều 38, Điều 50, điểm s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh S 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/6/2020.
3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự 2015.
Tịch thu tiêu hủy 01 (một) Phong bì ma túy sau giám định được Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước niêm phong số: 145 ngày 22/06/2020 có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Văn Hải, người chứng kiến Nguyễn Thanh S và cán bộ điều tra viên Lê Khắc Hoằng.
(Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Phước Long và Chi cục thi hành án dân sự thị xã Phước Long ngày 29/12/2020).
5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 09/12/2020).
Bản án 04/2020/HS-ST ngày 09/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 04/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Phước Long - Bình Phước |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về