Bản án 04/2020/HSST ngày 01/02/2021 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG NINH, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 04/2020/HSST NGÀY 01/02/2021 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 01 tháng 02 năm 2021, tại Phòng xét xử Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 48/2020/HSST ngày 24 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2020/QĐXX-ST ngày 14 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo: Nguyễn Mạnh C, sinh ngày 24 tháng 6 năm 2000; nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn P, xã D, huyện Q, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Không nghề; trình độ học v n: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn T (đã chết) và bà Nguyễn Thị L, chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn c m đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

Bị hại: Anh Nguyễn Văn L, địa chỉ: Thôn Q, xã T, huyện Q, tỉnh Quảng Bình (đã chết).

Người đại diện hợp pháp của bị hại: Chị Châu Thị T là vợ của bị hại; địa chỉ: Thôn Q, xã T, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn T, địa chỉ:

Thôn P, xã D, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt.

- Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn V, địa chỉ: Thôn P, xã D, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 25 phút ngày 07-02-2020 tại tỉnh lộ 564B, thuộc địa phận thôn Q, xã T, huyện Q, tỉnh Quảng Bình xảy ra vụ tai nạn giao thông giữa xe môtô biển kiểm soát 73G1-133.08 do Nguyễn Mạnh C, sinh năm 2000, ở thôn P, xã D điều khiển theo hướng T đi D với xe đạp do anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1968, ở thôn Q, xã T đang dắt bộ đi cùng chiều. Hậu quả, anh Nguyễn Văn L chết trên đường đi cấp cứu, hai phương tiện bị hư hỏng.

Về hiện trường vụ tai nạn giao thông:

Đoạn đường nơi xảy ra tai nạn là tỉnh lộ 564B, thuộc địa phận thôn Q, xã T, là đoạn đường thẳng, mặt đường được đổ bê tông, xi măng thẳng phẳng, mặt đường rộng 08 mét. Mép đường bên phải có lề đổ bê tông xi măng rộng 02 mét, có 01 mương dẫn nước rộng 0m60. Ở giữa đường có một vạch sơn màu trắng, ngắt quảng, mờ. Trên mặt đường để lại 02 vết xước, 02 đám máu, 01 đoạn chân chống xe đạp, 01 xe mô tô 73G1-133.08 nằm ngã nghiêng trên mặt đường, 01 xe đạp dựng đứng ở trong lòng mương dẫn nước.

L y tâm đường vào c ng nhà ông Nguyễn Xuân K, sinh năm 1973, ở thôn Q, xã T ở bên trái đường theo hướng khám nghiệm từ xã T đi xã D làm điểm mốc và mép đường bên phải theo hướng khám nghiệm từ xã T đi xã D là mép đường làm chuẩn.

Quá trình khám nghiệm được tiến hành theo hướng Nam - Bắc xã T đi xã D) thấy:

Vết xước 1 dài 14 mét, chạy theo hướng khám nghiệm. Từ điểm mốc đến điểm đầu số 1 là 8m20, từ điểm đầu số 1 đến mép đường làm chuẩn là 1m25, từ điểm cuối số 1 đến mép đường làm chuẩn là 1m35.

Vết xước 2 dài 20m50, chạy theo hướng khám nghiệm. Từ điểm đầu số 1 đến điểm đầu số 2 là 1m80, từ điểm cuối số 2 đến mép đường làm chuẩn là 0m70.

Điểm thứ 3 là đoạn chân chống xe đạp bị gãy rời ra khỏi vị trí ban đầu, từ điểm số 2 đến điểm đầu số là 1m60, dài 0m28, đang nằm trên mặt đường. Từ điểm đầu số 3 đến mép đường làm chuẩn là 1m10, từ điểm cuối số 3 đến mép đường làm chuẩn là 0m90.

Điểm thứ 4 là xe đạp, đang dựng đứng ở trong lòng mương dẫn nước đầu xe quay về hướng xã T, đuôi xe quay về hướng xã D. Từ điểm đầu số 3 đến tâm trục bánh trước số 4 là 3m50. Từ tâm trục bánh trước số 4 đến mép đường làm chuẩn là 2m30, từ tâm trục bánh sau số 4 đến tâm số 5 là 14m, từ tâm số 5 đến mép đường làm chuẩn là 4m.

Điểm thứ 5 là đám máu 1, có kích thước 1m10x1m. Từ tâm trục bánh trước số 4 đến tâm số 5 là 14m, từ tâm số 5 đến mép đường làm chuẩn là 4m.

Điểm thứ 6 là đám máu 2 có kích thước 1m10x0m60, từ tâm số 5 đến tâm số 6 là 5m40, từ tâm số 6 đến mép đường làm chuẩn là 2m10.

Điểm thứ 7 là xe mô tô BKS 73G1-133.08 đang nằm ngã nghiêng trên mặt đường, nằm nghiêng bên phải theo hướng của người điều khiển, đầu xe quay về hướng xã T, đuôi xe quay về hướng xã D. Từ tâm số 6 đến tâm trục bánh trước số 7 là 1m50, từ tâm trục bánh trước số 7 đến mép đường làm chuẩn là 0m90, từ tâm trục bánh sau số 7 đến mép đường làm chuẩn là 0m70.

Tại Bản kết luận giám định số 163/GĐ-PC09 ngày 19/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình kết luận: Các dấu vết bị đẩy cong tấm kim loại cố định chân chống, thanh trụ chân chống bị gãy rời, vết cà trượt mặt ngoài và sau đầu trục bên trái bánh sau ở xe đạp có độ cao phù hợp vết gãy rời phần dưới cánh mang bên phải, vết bung vỡ, trượt xước phần dưới chắn bùn bên phải bánh trước ở xe mô tô BKS 73G1-133.08.

Tại Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 39/TT ngày 02/3/2020 của Trung tâm giám định Y khoa - Pháp y Sở Y tế Quảng Bình, kết luận: Nguyên nhân chết của nạn nhân do chấn thương sọ não.

Về vật chứng: Quá trình điều tra, cơ quan CSĐT Công an huyện Quảng Ninh đã tạm giữ: 01 một) xe môtô BKS 73G1-133.08 nhãn hiệu HONDA, đã qua sử dụng; 01 một) xe đạp nhãn hiệu ASAMA sơn màu trắng, đã qua sử dụng:

01 một) giấy chứng nhận đăng ký xe môtô số 000648 mang tên Nguyễn Văn T;

01 một) giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS số 0019527 của xe môtô Biển kiểm soát 73G1-133.08.

Ngày 24/4/2020, Cơ quan điều tra đã trả lại: 01 một) xe mô tô BKS 73G1- 133.08 nhãn hiệu HONDA, đã qua sử dụng; 01 một) giấy chứng nhận đăng ký xe môtô số 000648 mang tên Nguyễn Văn T; 01 một) giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS số 0019527 của xe môtô Biển kiểm soát 73G1-133.08 cho anh Nguyễn Văn T là chủ sở hữu; 01 một) xe đạp nhãn hiệu ASAMA sơn màu trắng, đã qua sử dụng cho chị Châu Thị T là chủ sở hữu.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Nguyễn Mạnh C đã bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 65.000.000 đồng sáu mươi lăm triệu đồng). Gia đình bị hại đã viết đơn bãi nại và đề nghị không xử lý hình sự đối với Nguyễn Mạnh C.

Tại Bản cáo trạng số 49/CT-VKS-TA ngày 23 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình truy tố bị cáo Nguyễn Mạnh C về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, theo điểm a khoản 2 Điều 260 của Bộ luật hình sự.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Mạnh Cường đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, đúng như nội dung Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Ninh đã truy tố.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Ninh giữ quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật phát biểu quan điểm, luận tội chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Mạnh C. Cáo trạng truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Mạnh C mức án 36 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 tháng.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo và gia đình bị hại đã thỏa thuận bồi thường xong nên không xem xét.

Bị cáo Nguyễn Mạnh C nh t trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát và lời luận tội của Kiểm sát viên, hối hận về hành vi phạm tội của mình, tỏ thái độ ăn năn hối cải, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật; xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được cải tạo tại địa phương để có điều kiện chăm lo, giúp đỡ gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quảng Ninh, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Quảng Ninh, Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo thống nh t, phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án; phù hợp về thời gian, địa điểm và quá trình diễn biến của vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 21 giờ 25 phút, ngày 07-02- 2020 tại tỉnh lộ 564B, thuộc địa phận thôn Q, xã T, huyện Q, tỉnh Quảng Bình; Nguyễn Mạnh C điều khiển xe môtô biển kiểm soát 73G1-133.08 theo hướng T đi D đã va chạm với xe đạp do anh Nguyễn Văn L đang dắt bộ đi cùng chiều. Hậu quả, anh Nguyễn Văn L chết trên đường đi cấp cứu, hai phương tiện bị hư hỏng. Bị cáo không có giấy phép lái xe hạng A1, điều khiển xe môtô không giữ đúng khoảng cách an toàn với xe liền trước, gây tai nạn làm chết 01 người là vi phạm Điều 12 của Luật giao thông đường bộ, lỗi chủ yếu do Bị cáo gây ra; thực hiện hành vi phạm tội thuộc lỗi vô ý vì quá tự tin, đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 của Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Ninh và Bản luận tội của Kiểm sát viên đối với Bị cáo Nguyễn Mạnh C là có căn cứ, đúng thực tế khách quan.

Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Mạnh C gây mất trật tự, an toàn xã hội, gây hoang mang lo lắng cho người tham gia giao thông, cần áp dụng loại hình phạt nghiêm nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo, bảo vệ trật tự, an toàn xã hội trên lĩnh vực giao thông đường bộ và răn đe, phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại; gia đình bị hại có đơn đề nghị miễn truy cứu trách nhiệm hình sự là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bố bị cáo vừa chết, mẹ bị cáo bị bệnh tim phải điều trị thường xuyên tại Bệnh viện, bị cáo là lao động chính trong gia đình; bị cáo có nhân thân tốt, thể hiện qua việc không có tiền án, tiền sự; có nơi cư trú rõ ràng; có khả năng cải tạo dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền cơ sở. Hội đồng xét xử xét thấy, chưa cần thiết bắt phải chấp hành hình phạt tù, nên cho hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 của Bộ luật hình sự cũng đủ tác dụng cải tạo, giáo dục Bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho gia đình bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về vật chứng vụ án: Cơ quan Công an huyện Quảng Ninh đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại: 01 (một) xe mô tô BKS 73G1-133.08 nhãn hiệu HONDA, 01 một) giấy chứng nhận đăng ký xe môtô số 000648 mang tên Nguyễn Văn T, 01 một) giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS số 0019527 của xe môtô Biển kiểm soát 73G1-133.08 cho anh Nguyễn Văn T là chủ sở hữu;

01 một) xe đạp nhãn hiệu ASAMA sơn màu trắng, đã qua sử dụng cho chị Châu Thị T là chủ sỡ hữu là đúng với Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Mạnh cấphải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Bị cáo, đại diện hợp pháp bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 260; khoản 1 Điều 268, khoản 1 Điều 269; khoản 1 Điều 298; khoản 1, 4 Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

1. Về tội danh và hình phạt:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Mạnh cấphạm tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh C 36 (ba mươi sáu) tháng tù cho hưởng án treo; thời gian thử thách là 60 sáu mươi) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã D, huyện Q, tỉnh Quảng Bình giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách của án treo. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND xã D, huyện Q, tỉnh Quảng Bình giám sát, giáo dục bị cáo. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổ i nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 2 lần trở lên thì Toà án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Án phí sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Mạnh cấphải nộp 200.000 đồng Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

365
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2020/HSST ngày 01/02/2021 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:04/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quảng Ninh - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về