TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 04/2020/DS-PT NGÀY 29/10/2020 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SỨC KHỎE BỊ XÂM PHẠM
Ngày 29 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 14/2020/TLPT-DS ngày 02 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 02/2020/DS-ST ngày 31 tháng 7 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện V, bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 04/2020/QĐ-PT ngày 14 tháng 10 năm 2020, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Thái Thị T, sinh năm 1959; địa chỉ: Thôn Đ, xã V, huyện V, tỉnh Bình Định.
- Bị đơn: Ông Trần Đình D, sinh năm 1972; địa chỉ: Thôn Đ, xã V, huyện V, tỉnh Bình Định.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị T2, sinh năm 1962; địa chỉ: Thôn Đ, xã V, huyện V, tỉnh Bình Định.
- Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Thái Thị T.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn bà Thái Thị T trình bày: Ông D là em rể của chồng Bà. Giữa Bà và ông D có mâu thuẫn từ trước nên vào lúc 19 giờ 00 phút ngày 14 tháng 11 năm 2019 Bà đang ngồi uống nước tại quán của ông Bùi Thế K thì nghe ông D nói nhiều câu xúc phạm đến Bà nên Bà có cầm ly nước tạt vào mặt ông D, ngay lúc đó ông D đánh Bà và làm Bà ngã xuống đất bị thương tích nên phải đưa đến Trung tâm y tế huyện V nhập viện điều trị từ ngày 14/11/2019 đến ngày 19/11/2019 thì Bà được xuất viện. Sự việc xảy ra, chính quyền địa phương có đến lập biên bản. Nay Bà yêu cầu ông D phải bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho Bà với tổng số tiền là 9.850.000 đồng, gồm các khoản sau: Tiền thu nhập bị mất của Bà trong 05 ngày nằm viện là 750.000 đồng; tiền thu nhập bị mất của bà T2 là người chăm sóc cho bà trong 05 ngày nằm viện là 750.000 đồng; tiền bồi thường tổn thất tinh thần là 05 tháng lương cơ sở là 7.450.000 đồng; tiền chi phí chụp emprie bộ phận đầu là 580.000 đồng và tiền xe khứ hồi đi khám tại phòng khám Thành Long là 120.000 đồng; tiền thuê xe khám bệnh tại Trung tâm y tế huyện V là 200.000 đồng.
Bị đơn ông Trần Đình D trình bày: Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 14 tháng 11 năm 2019, Ông có đến quán của ông Bùi Thế K để uống nước thì gặp bà T, giữa Ông và bà T cãi nhau, bà T cầm ly nước tạt vào mặt Ông nên Ông dùng tay đánh bà T thì được mọi người ở đó can ngăn, bà T cầm cái ly ném trúng cằm của Ông. Ông không đồng ý mức yêu cầu bồi thường của bà T vì quá cao, ông chỉ đồng ý bồi thường theo đúng quy định của pháp luật đối với phần lỗi của ông gây ra.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị T2 trình bày: Trong thời gian bà T nằm viện điều trị tại Trung tâm y tế huyện V thì Bà là người trực tiếp chăm sóc cho bà T. Nay Bà thống nhất một phần yêu cầu khởi kiện của bà T, yêu cầu ông D phải bồi thường số tiền thu nhập bị mất của Bà trong thời gian chăm sóc cho bà T là 750.000 đồng và ông D trả số tiền này cho bà T2.
Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2020/DS-ST ngày 31 tháng 7 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện V đã quyết định:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Thái Thị T. Buộc ông Trần Đình D phải bồi thường cho bà T các khoản: Tiền công lao động mất thu nhập; tiền xe đi bệnh viện, tiền tổn thất tinh thần, với tổng số tiền là 2.920.000 đồng.
Bác yêu cầu còn lại của bà T.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định án phí dân sự sơ thẩm và quyền kháng cáo của các bên đương sự.
Ngày 13 tháng 8 năm 2019, nguyên đơn bà Thái Thị T có đơn kháng cáo một phần nội dung bản án sơ thẩm. Không chấp nhận xét lỗi của nguyên đơn và yêu cầu ông D phải bồi thường số tiền 9.850.000 đồng cho bà T.
Tại phiên Tòa phúc thẩm nguyên đơn không rút đơn khởi kiện đồng thời giữ nguyên kháng cáo với nội dung như trên.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu: Trong quá trình tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng; đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa phúc thẩm người có nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị T có đơn xin xử vắng mặt. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vắng theo quy định tại khoản 2 Điều 296 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[2] Về nội dung: Xét nội dung kháng cáo của bà Thái Thị T thấy rằng:
[2.1] Đối với yêu cầu xem xét lỗi của bà T trong quá trình xảy ra mâu thuẫn với ông D, HĐXX thấy rằng: Giữa bà T và ông D có quan hệ bà con với nhau. Do hai bên đã có mâu thuẫn từ trước nên vào ngày 14/11/2019 khi gặp bà T tại quán nước của ông Bùi Thế K thì ông D có nhiều lời lẽ không hay nói về bà T; lẽ ra, lúc này bà T bình tĩnh để giải quyết sự việc một cách khôn khéo nhưng ngược lại bà T dùng ly nước hất vào mặt ông D làm mất mặt ông D nơi công cộng đã dẫn đến hai bên xô xát nhau và hậu quả là bà T bị thương tích phải điều trị tại bệnh viện. Do đó, bà T cũng có một phần lỗi trong việc bà bị thương tích nên Tòa án cấp sơ thẩm xác định bà T phải chịu lỗi 1/3, ông D phải chịu lỗi 2/3 là phù hợp theo quy định tại khoản 4 Điều 585 Bộ luật Dân sự.
[2.2] Đối với việc bà T yêu cầu ông D phải bồi thường thiệt hại về sức khỏe với số tiền 9.850.000 đồng, bao gồm các khoản tiền: Tiền thu nhập bị mất của người bệnh và người nuôi bệnh trong 05 ngày, tiền bồi thường tổn thất tinh thần 05 lần mức lương cơ sở, tiền chi phí khám chữa bệnh tại phòng khám đa khoa Th, tiền thuê xe chở đi cấp cứu tại Trung tâm y tế huyện V. HĐXX thấy rằng án sơ thẩm tuyên buộc bị đơn phải bồi thường cho nguyên đơn các khoản như sau:
- Tiền ngày công lao động của người bệnh trong 4 ngày: 600.000 đồng;
- Tiền ngày công lao động của người nuôi trong 4 ngày: 600.000 đồng;
- Tiền thuê xe đi cấp cứu tại trung tâm y tế huyện V: 200.000 đồng;
- Tiền bồi thường tổn thất tinh thần 02 lần mức lương cơ sở: 2.980.000đ.
Tổng cộng: 4.380.000 đồng.
Thương tích của bà T là do ông D gây ra nhưng bà T cũng có một phần lỗi nên án sơ thẩm buộc ông D phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho bà T với số tiền là 2.920.000 đồng (4.380.000 đồng x 2/3) là phù hợp.
Bỡi vì, theo giấy chứng nhận thương tích số 14/CN-TTYT ngày 23/6/2020 của Trung tâm y tế huyện V (Bút lục 42) thì thời gian nhập viện điều trị của của bà T là 04 ngày: Vào viện lúc 21 giờ 15 phút ngày 14/11/2019, ra viện vào lúc 06 giờ 21 phút ngày 19/11/2029, với tình trạng lúc ra viện là bệnh ổn nên Bà yêu cầu bồi thường thu nhập bị mất cho Bà và người nuôi bệnh là 05 ngày, chi phí khám chữa bệnh tại phòng khám Th, thành phố Quy Nhơn mà không có chỉ định của Bác sĩ đồng thời yêu cầu bị đơn bồi thường tổn thất tinh thần 05 lần mức lương cơ sở là không phù hợp theo quy định tại Điều 590 Bộ luật Dân sự.
[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Về án phí phúc thẩm: Theo quy định tại điểm d Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, bà Tuyết không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
[5] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án đề nghị không chấp nhận đơn kháng cáo của nguyên đơn bà Thái Thị T, Giữ nguyên Bản án sơ thẩm là phù hợp với nhận định của Tòa.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 584, 585, 590 Bộ luật Dân sự 2015; Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Không chấp nhận kháng cáo của bà Thái Thị T.
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2020/DS-ST ngày 31 tháng 7 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện V.
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Thái Thị T. Buộc ông Trần Đình D phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho bà Thái Thị T số tiền là 2.920.000 đồng (Hai triệu chín trăm hai chục nghìn đồng).
2. Về án phí dân sự:
2.1. Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Trần Đình D phải chịu 300.000 đồng.
2.2. Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Thái Thị T không phải chịu.
3. Quyền và nghĩa vụ thi hành án:
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án.
Bản án 04/2020/DS-PT ngày 29/10/2020 về tranh chấp bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm
Số hiệu: | 04/2020/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Định |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 29/10/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về