Bản án 04/2019/HS-ST ngày 07/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 04/2019/HS-ST NGÀY 07/01/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 01 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 153/2019/HS-ST ngày 06 tháng 12 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 156/2019/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 12 năm 2019, đối với các bị cáo:

1. Hoàng Văn G, sinh ngày 04/11/1992 tại Tuyên Quang; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn CT, xã TL, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Cao Lan; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn Hvà bà Lôi Thị Th; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 31/8/2019 cho đến nay (có mặt).

2. Nguyễn Trọng Ng, sinh ngày 10/6/1991 tại Vĩnh Phúc; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Khu HC4, phường ĐĐ, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Trọng D và bà Phạm Thị Th; vợ, con: Chưa có; tiền sự: Không; tiền án: 01 tiền án (Tại Bản án số 89/2019/HS-ST ngày 26/7/2019 Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt xử phạt Nguyễn Trọng Ng 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, bị cáo đang trong thời gian chờ đi thi hành án; nhân thân: Tại Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính số 163/QĐ-CTUBND ngày 05/02/2010, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Vĩnh Yên quyết định buộc Ng đi cai nghiện bắt buộc 02 năm, Ng chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính ngày 26/02/2012; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 31/8/2019 cho đến nay (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 30 phút, ngày 31/8/2019 tại khu vực khu hành chính số 10, phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, tổ công tác Công an phường Đống Đa, phố Vĩnh Yên làm nhiệm vụ kiểm tra hành chính phát hiện và lập biên bản sự việc quả tang Hoàng Văn G và Nguyễn Trọng Ng có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tang vật thu giữa gồm: Thu giữ 01 gói nilon bên trong có chứa chất bột màu trắng trên mặt đường cạnh vị trí Ng đang đứng (Ng khai nhận đây là ma túy Ng vừa mua để sử dụng cùng Ng), tổ công tác đã tiến hành niêm phong theo quy định có ký hiệu A1, tiến hành tạm giữ của Hoàng Văn G 01 xe máy nhãn hiệu Honda Blade BKS: 22B1 – 950.99.

Tại kết luận giám định số 1879/KLGĐ ngày 04/9/2019 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: “Chất bột màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma tuý lẫn tạp chất, loại Heroine có khối lượng là 1,5537g. Khối lượng Heroine trong 1,5537g mẫu là 0,5194g. Hoàn lại mẫu vật còn lại sau giám định gồm: mẫu A1 = 1,1190g mẫu cùng toàn bộ bao gói”.

Quá trình điều tra Hoàng Văn G và Nguyễn Trọng Ng khai nhận: Do nghiện ma túy, vì vậy ngày khoảng 15 giờ ngày 31/8/2019, Hoàng Văn G điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Blade BKS: 22B1 – 950.99 đến nhà của Nguyễn Trọng Ng nhờ Ng mua hộ 1.000.000đ tiền ma túy Heroine. Ng thỏa thuận, sau khi mua được ma túy sẽ cùng Ng sử dụng chung. Ng đồng ý và cầm số tiền 1.000.000đ của Ng rồi bảo Ng chở đến nhà của một phụ nữ (tên Phượng) ở trong ngõ 9, đường Ngô Quyền thuộc khu hành chính 10, phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Khi gần đến nơi cách khoảng 10m, Ng bảo Ng dừng xe đứng chờ còn Ng đi một mình đến trước cửa sổ nhà Phượng rồi gõ cửa đưa tiền qua cửa sổ và mua được 1.000.000đ tiền ma túy Heroine, sau khi mua được ma túy, Ng cầm gói ma túy rồi đi bộ ra vị trí xe máy Ng. Khi Ng chuẩn bị lên xe cùng Ng tìm địa điểm sử dụng ma túy thì bị tổ công tác Công an phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên đang làm nhiệm vụ tiến hành kiểm tra hành chính. Thấy vậy, Ng vứt gói ma túy vừa mua được xuống đường cạnh vị trí đang đứng thì bị tổ công tác phát hiện và thu giữ lập biên bản sự việc, niêm phong gói ma tuy theo quy định.

Tại Cáo trạng số: 150/CT-VKSTPVY ngày 30/11/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên đã truy tố bị cáo Hoàng Văn G và Nguyễn Trọng Ng về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại Cơ quan điều tra, cũng như tại phiên tòa bị cáo Hoàng Văn G và Nguyễn Trọng Ng khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với các bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với cả hai bị cáo, riêng bị cáo Ng đề nghị áp dụng thêm điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 56 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Hoàng Văn G và Nguyễn Trọng Ng mỗi bị cáo từ 2 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

Áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017); khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu tiêu hủy 1,1190 gam ma túy cùng toàn bộ bao gói niêm phong hoàn lại sau giám định. Xác nhận Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Liễu Văn Bảy xe máy BKS: 22B1-950.99.

Các bị cáo không bào chữa và tranh luận gì. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội nêu trên của bị cáo Hoàng Văn G và bị cáo Nguyễn Trọng Ng tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người làm chứng về thời gian, địa điểm, thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội và hậu quả do tội phạm gây ra, cùng các tang vật đã thu giữ, các tài liệu chứng cứ khác được thu thập khách quan đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ để kết luận:

Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 31/8/2019, tại tại khu hành chính 10 thuộc phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, Hoàng Văn G và Nguyễn Trọng Ng đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng thì bị tổ công tác Công an phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc phát hiện và lập biên bản quả tang. Tang vật thu giữ là 01 gói nilon bên trong có chứa chất bột màu trắng, được giám định là ma túy lẫn tạp chất, loại Heroine có khối lượng 1.5537g. Hàm lượng Heroine trong 1,5537g mẫu là 0,5194g. Hành vi phạm tội nêu trên của bị cáo Hoàng Văn G, Nguyễn Trọng Ng đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi bổ sung năm 2017) có khung hình phạt từ 01 đến 05 năm tù.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an và an toàn trong xã hội, ảnh hưởng đến nòi giống, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người. Do vậy, cần phải xử lý thật nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[2] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, vị trí vai trò của các bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, Hội đồng xét xử NHẬN THẤY

Các bị cáo Hoàng Văn G, Nguyễn Trọng Ng phạm tội theo khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, có mức cao nhất của khung hình phạt đến 05 năm tù, theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 9 của Bộ luật Hình sự năm 2015 trường hợp nêu trên thuộc tội phạm nghiêm trọng.

Trong vụ án này bị cáo Ng là người rủ rê khởi xướng, chuẩn bị phương tiện (tiền, xe máy để đi mua ma túy), bị cáo Ng tham gia với vai trò đồng phạm là người trực tiếp thực hiện hành vi mua ma túy, các bị cáo không có sự câu kết chặt chẽ với nhau nên đây là trường hợp phạm tội đồng phạm giản đơn. Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có phân hóa vai trò của từng bị cáo để có đường lối xử lý tương xứng với tính chất, mức độ mà các bị cáo đã thực hiện theo quy định tại Điều 17, 58 của Bộ luật Hình sự.

Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng: Trước khi phạm tội bị cáo Ng có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, bị cáo Ng có nhân thân xấu đã bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc năm 2010 Nhưng không lấy đó làm bài học rèn luyện tu dưỡng cải tạo bản thân, các bị cáo đều nhận thức được tác hại của ma túy cũng như mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi do mình thực hiện, nhưng vì nghiện ngập không làm làm chủ bản thân, đã bất chấp hậu quả mua ma túy về sử dụng, trong thời gian qua mặc dù chính quyền địa phương và các cơ quan bảo vệ pháp luật tăng cường xử lý, kiên quyết đấu tranh với loại tội phạm này, tuy nhiên trên địa bàn thành phố Vĩnh Yên các tội phạm về ma túy không giảm mà có chiều hướng gia tăng, đây là nguyên nhân làm mất ổn định tình hình an ninh chính trị tại địa phương và phát sinh các tội phạm khác trong xã hội. Do đó, cần xử phạt bị cáo thật nghiêm để làm gương cho người khác. Trong vụ án này bị cáo Ng là người rủ rê khởi xướng, chuẩn bị phương tiện phạm tội lên cần xử phạt nặng hơn bị cáo Ng, bị cáo Ng tham gia với vai trò là người thực hành trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội, lẽ ra cần xử phạt bị cáo mức án nhẹ hơn bị cáo Ng, nhưng ngày 26/7/2019 bị cáo đã bị Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên bị xử phạt 02 năm tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” đang trong thời gian chờ đi thi hành án lại phạm tội mới, lên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp “ Tái phạm” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, do đó cần xử phạt bị cáo Ng mức án ngang bằng với bị cáo Ng như đề nghị của vị đại diện viện kiểm sát là có căn cứ. Khi quyết định hình phạt có xem xét đến các tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo đó là: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà các bị cáo đã “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” để giảm nhẹ một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Tuy nhiên, các bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản và nghề nghiệp nên Hội đồng xét xử quyết định miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[4] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[5] Đối với người phụ nữ tên là Phượng đã bán ma túy cho Nguyễn Trọng Ng, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Vĩnh Yên đã nhiều lần triệu tập Phượng lên làm việc, tuy nhiên Phượng đều không có mặt tại cơ quan điều tra. Tiến hành xác minh tại chính quyền địa phương, xác định Phượng hiện không có mặt tại địa phương nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là có căn cứ.

[6] Về vật chứng: Đối với số ma túy và bao gói ma túy hoàn lại sau giám định không có giá trị sử dụng cần tịch thu để tiêu hủy.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Blade BKS: 22B1 – 950.99, Hoàng Văn G sử dụng để chở Nguyễn Trọng Ng sử dụng vào việc phạm tội. Quá trình điều tra xác định chiếc xe máy trên thuộc quyền sở hữu của anh Liễu Văn Bảy, anh Bảy cho Ng mượn xe và không biết việc Ng sử dụng xe để đi mua ma túy. Vì vậy Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Vĩnh Yên đã trả lại chiếc xe trên cho anh Liễu Văn Bảy có căn cứ.

[7] Về các vấn đề khác: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Hoàng Văn G 03 (Ba) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam (ngày 31/8/2019).

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 56; Điều 58; của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng Ng (Ba) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tổng hợp hình phạt 02 năm tù của bản án số 89/2019/HS- ST ngày 26/7/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai Bản án là 05 (Năm) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam (ngày 31/8/2019).

Căn cứ khoản 1, 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu tiêu hủy 1,1190 gam ma túy heroine cùng toàn bộ bao gói niêm phong hoàn lại sau giám định; (Đặc điểm tang vật như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/01/2020).

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTV-QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Hoàng Văn G và bị cáo Nguyễn Trọng Ng, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2019/HS-ST ngày 07/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:04/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:07/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về