Bản án 04/2019/HNGĐ-ST ngày 26/07/2019 về  tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN R, TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 04/2019/HNGĐ-ST NGÀY 26/07/2019 VỀ  TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Trong ngày 26 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện R, tỉnh Bắc Kạn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 31/2019/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 4 năm 2019 về tranh chấp "Hôn nhân và gia đình" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 10/6/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Sằm Thị M, sinh năm 19XX, "Có mặt".

2. Bị đơn: Anh Triệu Văn T, sinh năm 19XX, "Có mặt".

3. Người có quyền lợi liên quan: Bà Bàn Thị L, sinh năm 19xx, "Vắng mặt".

Địa chỉ: Cùng trú tại thôn D, xã C, huyện Ri, tỉnh Bắc Kạn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và biên bản ghi lời khai có trong hồ sơ vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn chị Sằm Thị M trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh T xây dựng gia đình trên cơ sở tự nguyện, không bị ai ép buộc và được gia đình tổ chức cưới theo phong tục địa phương năm 20xx và có đăng ký kết hôn tại UBND xã C. Sau khi kết hôn đến năm 2015 vợ chồng xảy ra nhiều bất đồng quan điểm và thường xuyên bị anh T đánh. Do vậy chị đã sống ly thân với anh T đến nay đã 3 năm. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T.

- Về con chung: Trong hôn nhân vợ chồng sinh được 01 con chung Sằm Triệu Bảo N, sinh ngày 30/3/20XX. Hiện nay con N đang ở vói anh T. Nay ly hôn nhất trí với nguyện vọng nuôi con của anh T và nhất trí cấp dưỡng nuôi con cho anh T với mức cấp dưỡng là 600.000 đ/tháng đến khi con N đủ 18 tuổi. Phương thức cấp dưỡng là vào ngày 28 hàng tháng. Thời điểm cấp dưỡng vào ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

Ngoài con chung Sằm Triệu Bảo N, hiện nay chị đang mang thai tháng thứ 9, nhưng không yêu cầu Tòa án giải quyết và vẫn giữ nguyên yêu cầu khỏi kiện.

- Về tài sản chung: Có 01 ngôi nhà sàn 03 gian cột gỗ và 01 đất nền nhà chưa được cấp GCNQSDĐ có địa chỉ tại thôn D, xã C, huyện R, tỉnh Bắc Kạn + 01 chiếc xe mô tô là tài sản chung của vợ chồng hiện nay anh T đang sử dụng chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với 1000 m2 đất ruộng là của mẹ chị cho vợ chồng chị mượn để canh tác chứ không phải là tài sản chung của vợ chồng và hiện nay bà L đang sử dụng nay ly hôn chị trả lại cho bà L.

- Về nợ chung: Trong hôn nhân vợ chồng không vay hay cho ai vay tài sản gì khác nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Theo biên bản lấy lời khai có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa, bị đơn anh Triệu Văn T trình bày:

- Về quan hệ Hôn nhân: Nhất trí với nội dung trên của chị M và thừa nhận có một vài lần được tát chị M. Nay chị M xin ly hôn thì anh nhất trí ly hôn vói chị M.

- Về con chung: Nhất trí với nội dung trên của chị M về con chung Sằm Triệu Bảo N. Nay ly hôn anh yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con N và anh yêu cầu chị M phải cấp dưỡng nuôi con chung cho anh với mức cấp dưỡng là 600.000 đ/tháng và phương thức cấp dưỡng là ngày 28 hàng tháng.

- Về việc chị M mang thai hiện nay không phải là con của anh nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Nhất trí với nội dung trên của chị M. Trong quá trình giải quyết vụ án anh đi làm trong Miền nam nên không về tham gia đầy đủ theo quy định của pháp luật. Nay ly hôn anh chỉ yêu cầu được quyền sử dụng 1000 m2 đất ruộng để sau này chuyển cho con N sử dụng và được sở hữu 01 chiếc xe mô tô do mua lại của một người khác .

- Về công nợ chung: Nhất trí với nội dung trên của chị M.

* Tại đơn trình bày nguyện vọng của Sằm Triệu Bảo N viết ngày 26/6/2019 trình bày nguyện vọng xin được ở với bố sau khi bố mẹ ly hôn.

* Tại biên bản lấy lời khai, ngưòi có quyền lợi liên quan bà Bàn Thị L trình bày: Bà là mẹ đẻ của chị Sằm Thị M. Năm 2010 gia đình bà đã tổ chức cưới cho chị Sằm Thị M với anh Triệu Văn T. Sau khi kết hôn thì vợ chồng M, T về sinh sống tại nhà bà được một năm thì ra ở riêng, số diện tích đất ruộng 1000 m2 tại địa chỉ thôn D, xã C, huyện R thực tế là thửa số 18, diện tích 910 m2 đã được cấp GCNQSDĐ số AG 910647 có số vào sổ H01346/QSD đất cấp ngày 26/6/2009 đứng tên bà và bà chỉ cho vợ chồng họ mượn quyền sử dụng đất để canh tác phục vụ cuộc sống gia đình chứ không phải là tặng cho chị M, anh T hay tặng cho cháu Sằm Triệu Bảo N.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện R tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm: Quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án đến nay, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa đều tuân theo trình tự pháp luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, bị đơn chưa chấp hành đúng quy định của của Bộ luật Tố tụng dân sự. Các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đều được Thẩm phán thu thập đúng trình tự, thủ tục luật định. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 28, 35 của Bộ luật tố tụng dân sự; các điều 55, 81, 82, 84 của Luật hôn nhân và gia đình đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử cho chị Sằm Thị M được ly hôn vói anh Triệu Văn T; anh Triệu Văn T được quyền chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con Sằm Triệu Bảo N đến khi đủ 18 tuổi; chị M có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh T với mức cấp dưỡng là 600.000 đ/tháng. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở; tài sản chung không xem xét giải quyết. Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm và án phí cấp dưỡng sơ thẩm theo đúng quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng: Chị Sằm Thị M có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân huyện R, tỉnh Bắc Kạn giải quyết vụ án “Hôn nhân và gia đình” với anh Triệu Văn T. Chị M, anh T đều có hộ khẩu thường trú tại xã C, huyện R, tỉnh Bắc Kạn, nên Tòa án nhân dân huyện R, tỉnh Bắc Kạn thụ lý giải quyết vụ án “Hôn nhân gia đình” là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

Đối với việc chị M hiện nay đang mang thai ở tháng thứ 9 và không yêu cầu Tòa án giải quyết, đồng thời vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn. Nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị M là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 51 của Luật hôn nhân và gia đình.

Trong quá trình giải quyết vụ án xét thấy mặc dù nguyên đơn, bị đơn không yêu cầu Tòa án đưa bà Bàn Thị L vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi liên quan. Nhưng xét thấy việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi của bà L nên Tòa án đã đưa bà Bàn Thị L vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi liên quan là phù hợp với quy định tại khoản 4 Điều 68 của BLTTDS 2015.

Bị đơn yêu cầu bà Bàn Thị L có mặt tại phiên tòa; nguyên đơn yêu cầu tòa án giải quyết vắng mặt bà L; Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục phiên tòa giải quyết vắng mặt bà L. Bà Bàn Thị L đã được tống đạt, niêm yết hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu tập để trình bày ý kiến, các Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt mặc không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Tòa án nhân dân huyện R tiến hành xét xử vắng mặt bà L là có căn cứ.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị M và anh T xây dựng gia đình trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại UBND xã c theo giấy chứng nhận kết hôn số 27 - 2012 cấp ngày 21/11/2012; do mâu thuẫn gia đình chị M đã sống ly thân với anh T đén nay đã 3 năm; trong quá trình giải quyết vụ án chị M và anh T đều nhất trí ly hôn. Xét thấy, quan hệ hôn nhân của chị M và anh T là hợp pháp; các đương sự đều nhất trí ly hôn, do vậy cho chị M được ly hôn với anh T là có căn cứ.

[3] Về con chung: Trong hôn nhân chị M và anh T sinh được 01 con chung Sằm Triệu Bảo N sinh ngày 30/3/2012. Hiện nay con N đang ở với anh T. Nay ly hôn, chị M nhất trí để anh T là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con N và nhất trí cấp dưỡng nuôi con chung cho anh T với mức cấp dưỡng là 600.000 đ/tháng, phương thức cấp dưỡng là ngày 28 hàng tháng, thời điểm cấp dưỡng là ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Quan điểm giải quyết vụ án của chị M phù hợp với quan điểm của anh T và cháu Sằm Triệu Bảo N. Do vậy, Hội đồng xét xử nhận thấy việc giao con chung cho anh Triệu Văn T là người trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc, giáo dục sau ly hôn và chị M có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con cho anh T với mức cấp dưỡng, phương thức cấp dưỡng, thời điểm cấp dưỡng như trên là phù hợp. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Đối với việc chị M đang mang thai trong quá trình giải quyết vụ án, các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Có 01 ngôi nhà sàn cột gỗ 03 gian + 01 thửa đất nền nhà chưa được cấp GCNQSDĐ có địa chỉ tại thôn D, xã C, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn được chị M và anh T thống nhất không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Đối với thửa đất 1000 m2 có địa chỉ thửa đất tại thôn D, xã C anh Triệu Văn T yêu cầu được quyền sử dụng để sau này chuyển cho con Sằm Triệu Bảo N sử dụng và quyền sở hữu 01 chiếc xe mô tô Sirius nhưng trong quá trình giải quyết vụ án anh T đi làm xa, luôn vắng mặt tại Tòa án, không cung cấp các tài liệu giấy tờ liên quan đến chiếc xe mô tô và không chứng minh được thửa ruộng 1000 m2 đó là tài sản chung của vợ chồng. Mặt khác, chị M đã khẳng định thửa đất nói trên là của bà L và hiện nay bà L đang sử dụng nay ly hôn trả lại cho bà L.

Còn về nguồn gốc của thửa đất có diện tích 1000 m2 nói trên thì tại biên bản ghi lời khai, bà Bàn Thị L là mẹ đẻ của chị Sằm Thị M khẳng định: Diện tích 1000 m2 đất ruộng anh T yêu cầu là thửa số X, diện tích 910 m2 đã được cấp GCNQSDĐ số AG 910xxx có số vào sổ H013xx/QSD đất cấp ngày 26/6/20XX đứng tên bà. Thửa số 18 này bà chỉ cho vợ chồng họ mượn quyền sử dụng đất để canh tác phục vụ cuộc sống gia đinh chứ không phải là tặng cho chị M, anh T và bà L không có yêu cầu gì.

Từ những phân tích trên, xét thấy cần chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc không yêu cầu giải quyết tài sản chung của vợ chồng; không xem xét giải quyết đối với thửa đất số X, diện tích 910 m2 đã được cấp GCNQSDĐ số AG 910xxx cấp ngày 26/6/20xx; không xem xét giải quyết yêu cầu của anh T. Sau này nếu anh T có tranh chấp thửa số X diện tích 910 m2 và 01 chiếc xe mô tô Sirius thì sẽ được xem xét giải quyết trong một vụ án khác dân sự khác khi anh có yêu cầu.

[5] Về ý kiến của đại diện Viện kiểm sát: Về việc chấp hành pháp luật tố tụng dân sự; quan điểm giải quyết vụ án là có cơ sở.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Sằm Thị M phải chịu tiền án phí ly hôn và án phí cấp dưỡng sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

V các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58 và Điều 60 của Luật hôn nhân và gia đình; Điều 28, 35, 39 và các Điều 147, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 và điểm a khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Sằm Thị M.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Sằm Thị M được ly hôn với anh Triệu Văn T.

Quan hệ hôn nhân giữa chị Sằm Thị M với anh Triệu Văn T chấm dứt kể từ ngày bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

2. Về con chung: Anh Triệu Văn T được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung Sằm Triệu Bảo N, sinh ngày 30/3/2012 đến khi con Sằm Triệu Bảo N đủ 18 tuổi. Chị Sằm Thị M có trách nhiệm phải cấp dưỡng nuôi con chung cho anh T với mức cấp dưỡng là 600.000 đ (Sáu trăm nghìn đồng)/tháng đến khi con N đủ 18 tuổi. Phương thức cấp dưỡng là vào ngày 28 (Hai mươi tám) hàng tháng. Thời điểm cấp dưỡng là sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, khoản tiền phải thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật dân sự 2015.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Chị M đang mang thai, các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không được đặt ra để xem xét giải quyết.

3. Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét, giải quyết.

Sau này nếu anh Triệu Văn T có tranh chấp đối với thửa số X, diện tích 910 m2 đã được cấp GCNQSDĐ số AG 910xxx có số vào sổ H013xx/QSD đất cấp ngày 26/6/20xx đứng tên bà Bàn Thị L và 01 chiếc xe mô tô Sirius thì sẽ được xem xét giải quyết trong một vụ án dân sự khác khi anh có yêu cầu.

4. Về án phí: Chị Sằm Thị M phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền án phí ly hôn và 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền án phí cấp dưỡng sơ thẩm. Xác nhận chị M đã nộp đủ 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 067xx ngày 09/xx/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn. Chị M còn phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền án phí cấp dưỡng sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm. Đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại trụ sở UBND xã nơi họ cư trú.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2019/HNGĐ-ST ngày 26/07/2019 về  tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:04/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Na Rì - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về