Bản án 04/2019/HNGĐ-ST ngày 22/02/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LÀO CAI, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 04/2019/HNGĐ-ST NGÀY 22/02/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 22 tháng 2 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 289/2018/TLST–HNGĐ ngày 07 tháng 12 năm 2018 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn’’ theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2019/QĐXX–ST ngày 07 tháng 02 năm 3019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2019/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 01 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thu T - Sinh năm 1992 (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt); Địa chỉ: phường P, thành phố L, tỉnh Lào Cai

2. Bị đơn: Anh Ngô Quốc V- Sinh năm 1987 (vắng mặt lần thứ hai); Địa chỉ: phường P, thành phố L, tỉnh Lào Cai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 05 tháng 12 năm 2018, tại bản tự khai, nguyên đơn chị Nguyễn Thu T trình bày:

Về hôn nhân: Chị T kết hôn với anh V năm 2014, có đăng ký kết hôn tại UBND xã G, huyện B, tỉnh Lào Cai. Hôn nhân trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được một năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do vợ chồng anh chị bất đồng quan điểm sống, anh V thường xuyên vắng nhà không quan tâm đến gia đình, vợ con. Tuy vợ chồng không sảy ra đánh cãi nhau, nhưng vợ chồng không có sự đồng cảm chia sẻ với nhau, dẫn đến cuộc sống vợ chồng không hòa hợp hạnh phúc. Mâu thuẫn của anh chị đã được gia đình, bạn bè khuyên giải, nhưng cuộc sống chung của anh chị không cải thiện được. Chị T và anh V đã sống ly thân không còn quan hệ gì về tình cảm và kinh tế. Đến nay chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không có hạnh phúc. Đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh V.

Về nuôi con chung: Quá trình chung sống chị T và anh V có 01 người con chung là cháu Ngô Minh Khang - sinh ngày 27/9/2014. Khi ly hôn chị T có nguyện vọng được nuôi cháu Khang đến tuổi trưởng thành, Không yêu cầu anh V phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai tham gia phiên toà, phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự, trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán; của Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật tại phiên toà là đúng theo các quy định của pháp luật, đảm bảo đúng trình tự luật định; không vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử; Viện kiểm sát nghiên cứu hồ sơ đảm bảo đúng pháp luật.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào khoản 1 Điều 51; Khoản 1 Điều 56; Điều 57; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.Căn cứ khoản 4 Điều 147; Điểm a, điểm b khoản 2 Điều 227; Khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận toàn bộ đơn khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thu T.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thu T và anh Ngô Quốc V.

2. Về nuôi con: Giao cháu Ngô Minh K - sinh ngày 27/9/2014 cho chị Nguyễn Thu T trực tiếp trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến đủ 18 tuổi. Anh Ngô Quốc V không phải cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án Toà án nhân dân thành phố Lào Cai đã triệu tập hợp lệ đối với bị đơn anh Ngô Quốc V, nhưng anh V không đến Toà án để tham gia tố tụng, cũng như không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của chị T. Vì vậy vụ án không tiến hành hoà giải theo quy định của pháp luật được. Tại phiên toà hôm nay bị đơn anh Ngô Quốc V vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Nguyên đơn chị Nguyễn Thu T có đơn xin xét xử vắng mặt. Toà án xét xử vụ án theo quy định tại điểm a, điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Xác định hôn nhân giữa nguyên đơn và bị đơn là hợp pháp. Tuy nhiên sau khi kết hôn trong cuộc sống vợ chồng anh chị không có hạnh phúc, do vợ chồng anh chị thường xuyên bất đồng quan điểm sống, anh V thường xuyên vắng nhà không quan tâm đến gia đình, vợ con. Vợ chồng không có sự đồng cảm chia sẻ với nhau, dẫn đến cuộc sống vợ chồng không hòa hợp hạnh phúc. Chị T và anh V đã sống ly thân không còn quan hệ gì về tình cảm và kinh tế.

Hội đồng xét xử xét thấy: Mâu thuẫn vợ chồng giữa chị T và anh V đã kéo dài, thời gian sống ly thân nhau đã lâu, hôn nhân đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T. Xử cho ly hôn giữa chị T và anh V là phù hợp với khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về nuôi con: Nguyên đơn và bị đơn có 01 người con chung là cháu Ngô Minh K - sinh năm 2014. Nguyên đơn xin được nuôi con.

Hội đồng xét xử xét thấy. Cháu Ngô Minh K còn nhỏ, rất cần sự chăm sóc của người mẹ, chị T có thu nhập ổn định, có thời gian, điều kiện để chăm sóc cháu Ngô Minh K, đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho cháu. Vì vậy cần chấp nhận yêu cầu xin nuôi con của chị T và giao cháu Ngô Minh K - sinh ngày 27/9/2014 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi là phù hợp với quy định tại Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng nuôi con: Nguyên đơn không yêu cầu nên không xem xét.

[4]. Về quan hệ tài sản: Nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5]. Về án phí: Nguyên đơn phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51; Khoản 1 Điều 56; Điều 57; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Căn cứ khoản 4 Điều 147; Điểm a, điểm b khoản 2 Điều 227; Khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận toàn bộ đơn khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thu T.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thu T và anh Ngô Quốc V. Hôn nhân của chị Nguyễn Thu T và anh Ngô Quốc V chấm dứt kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

2. Về nuôi con: Giao cháu Ngô Minh K - sinh ngày 27/9/2014 cho chị Nguyễn Thu T trực tiếp trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến đủ 18 tuổi. Anh Ngô Quốc V không phải cấp dưỡng nuôi con. Anh Ngô Quốc V có quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, không ai được quyền cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thu T phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm. Xác nhận chị Nguyễn Thu T đã nộp tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số số 0005644 ngày 06/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Chị Nguyễn Thu T đã nộp đủ tiền án phí.

Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7,7a và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

297
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2019/HNGĐ-ST ngày 22/02/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:04/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - Lào Cai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về