TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC
BẢN ÁN 04/2019/HNGĐ-PT NGÀY 20/02/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 20 tháng 02 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 30/2018/TLPT- HNGĐ ngày 06 tháng 12 năm 2018 về việc “tranh chấp hôn nhân và gia đình”. Do bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 48/2018/HNGĐ-ST ngày 20/9/2018 của Toà án nhân dân huyện V bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 03/2018/QĐ - PT ngày 07 tháng 01 năm 2019 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Cao Duy T, sinh năm 1961; trú tại: Thôn A, xã B, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc; hiện đang tạm trú tại: Tổ 2, thị trấn Y, huyện M, tỉnh H, (Có mặt).
- Bị đơn: Bà Trần Thị Kim C, sinh năm 1962; trú tại: Thôn A, xã B, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc, (Có mặt).
- Người kháng cáo: Ông Cao Duy T.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn xin ly hôn ngày 15/5/2018 và các lời khai tiếp theo nguyên đơn là ông Cao Duy T trình bày: Ông và bà Trần Thị Kim C kết hôn ngày 30/6/1984, việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống cùng gia đình ông Cao Duy T. Thời gian đầu sống hạnh phúc đến năm 1987 có xảy ra mâu thuẫn nhưng vợ chồng tự giải quyết và chung sống hòa thuận, đến năm 2013 ông Cao Duy T lên huyện M, tỉnh H làm ăn, buôn bán, thỉnh thoảng có về nhà, vợ chồng vẫn chung sống bình thường. năm 2017 ông Cao Duy T làm đơn xin ly hôn bà Trần Thị Kim C, Tòa án nhân dân huyện V đã thụ lý và tổ chức hòa giải đoàn tụ thành. Ông Cao Duy T tiếp tục lên huyện M, tỉnh H làm ăn, buôn bán, đến tháng 5/2018 vợ chồng lại phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp, bà Trần Thị Kim C không chịu thay đổi tính cách, ông bà đã sống ly thân từ tháng 5/2018. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn nên ông Cao Duy T xin được ly hôn với bà Trần Thị Kim C.
Bà Trần Thị Kim C đồng ý với trình bày của ông Cao Duy T về thời gian kết hôn, quá trình chung sống, mâu thuẫn của vợ chồng. Nhưng bà cho rằng nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng là do năm 2013 ông Cao Duy T lên huyện M, tỉnh H buôn bán có quan hệ với người phụ nữ khác, thỉnh thoảng vẫn về nhà và vợ chồng vẫn chung sống bình thường. Đến tháng 5/2018 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn và đã sống ly thân, ông Cao Duy T không qua lại, thăm hỏi bà. Nay ông Cao Duy T xin ly hôn, bà xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn, xin được đoàn tụ.
Về con chung: Ông Cao Duy T và bà Trần Thị Kim C có 03 con chung. Các cháu đã trưởng thành và lập gia đình riêng nên không đề nghị Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung; tài sản riêng; vay nợ, đất canh tác và công sức: Ông Cao Duy T và bà Trần Thị Kim C không đề nghị Tòa án giải quyết.
Với nội dung như trên, tại bản án số 48/2018/HNGĐ-ST ngày 20/9/2018, Toà án nhân dân huyện Vĩnh Tường đã áp dụng Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội hướng dẫn mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận yêu cầu của ông Cao Duy T xin ly hôn với bà Trần Thị Kim C.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo cho các đương sự theo quy định.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 21/9/2018 ông Cao Duy T có đơn kháng cáo không nhất trí với quyết định của bản án sơ thẩm.
Tại phiên toà phúc thẩm, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đầy đủ quy định của pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận đơn kháng cáo của ông Cao Duy T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
Về hình thức: Đơn kháng cáo của ông Cao Duy T làm trong hạn luật định, đơn hợp lệ được xem xét giải quyết.
Về nội Dung:
[1]. Ông Cao Duy T và bà Trần Thị Kim C kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân xã B, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc, hôn nhân của ông T bà C là hợp pháp. Quá trình chung sống năm 1987 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, sau đó được gia đình khuyên giải, vợ chồng chung sống hòa thuận. Đến năm 2017 ông Cao Duy T làm đơn xin ly hôn bà Trần Thị Kim C, Tòa án nhân dân huyện V đã thụ lý giải quyết và đã tổ chức hòa giải đoàn tụ thành. Đến tháng 5/2018 vợ chồng lại phát sinh mâu thuẫn và ông Cao Duy T đã đi ở chỗ khác, nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng nghi ngờ nhau về việc ông Cao Duy T có quan hệ ngoại tình. Ông Cao Duy T xin ly hôn nhưng bà Trần Thị Kim C cho rằng tình cảm vợ chồng vẫn còn không đồng ý ly hôn. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã xác minh tại địa phương và các con chung của ông Cao Duy T đều xác định vợ chồng không có mẫu thuẫn gì lớn, đều đề nghị Tòa án xem xét, hòa giải để ông Cao Duy T và bà Trần Thị Kim C về chung sống cùng nhau.
[2]. Xét thấy tình cảm vợ chồng ông Cao Duy T và bà Trần Thị Kim C vẫn còn, có thể hàn gắn được, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử không chấp nhận đơn xin ly hôn của ông Cao Duy T là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.
[3]. Tại phiên tòa phúc thẩm ông Cao Duy T vẫn giữ nguyên kháng cáo nhưng không xuất trình được tài liệu, chứng cứ gì mới, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của ông Cao Duy T.
[4]. Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông Cao Duy T phải nộp án phí Hôn nhân và gia đình phúc thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự.
Giữ nguyên bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 48/2018/HNGĐ-ST ngày 20/9/2018 của Toà án nhân dân huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc.
Áp dụng Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội hướng dẫn mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận yêu cầu của ông Cao Duy T xin ly hôn với bà Trần Thị Kim C.
Ông Cao Duy T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình phúc thẩm. Được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ theo biên lai thu tiền số AA/2017/0002021 ngày 21/9/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 04/2019/HNGĐ-PT ngày 20/02/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình
Số hiệu: | 04/2019/HNGĐ-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Vĩnh Phúc |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 20/02/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về