Bản án 04/2018/HSST ngày 10/01/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 04/2018/HSST NGÀY 10/01/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 10 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 176/2017/HSST ngày 30 tháng 11 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 178/2017/HSST-QĐ ngày 27/12/2017, đối với bị cáo:

TRẦN QUỐC T, sinh ngày 02/02/1971, tại TQ

Trú tại: Tổ 24, phường P, thành phố TQ, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn 10/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Minh C (đã chết) và bà Vũ Thị N, sinh năm 1928; Vợ: Nguyễn Thị Minh H, sinh năm 1976 (đã ly hôn), con: Có 01 con sinh năm 1994.

* Tiền án: Không.

* Tiền sự: Quyết định số 94/QĐ-UBND ngày 08/8/2017 của Chủ tịch UBND phường P áp dụng biện pháp giáo dục tại phường đối với Trần Quốc T.

* Nhân thân: Ngày 19/12/1996, Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang xử phạt 3 năm t giam về hành vi tổ ch c d ng chất ma túy (Ngày 30/11/2006 đã chấp hành xong toàn bộ bản án)

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/9 Hi n ang bị tạm giam tại Trại tạm gia mức ng an t nh Tuyên uang Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ 50 phút ngày 05/9/2017; tại trụ sở Công an thành phố Tuyên Quang; tổ công tác đội CSĐT tội phạm về ma tuý - Công an thành phố Tuyên Quang, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Trần Quốc T về hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý. Thu giữ, niêm phong của T 01 gói nhỏ bên ngoài được gói bằng giấy lịch, bên trong có ch a chất bột màu trắng ngà, T khai nhận là Hêrôin, cất giấu trong người mục đích để sử dụng.

Quá trình điều tra T khai nhận: Khoảng 07 giờ ngày 05/9/2017, T đi sang TN mục đích tìm mua ma túy về sử dụng. Tại khu vực bến xe khách tỉnh Thái Nguyên, T gặp và hỏi mua được của một người đàn ông lái xe ôm (không biết tên và địa chỉ) 01 gói Hêrôin bên ngoài được gói bằng giấy lịch, với số tiền 200.000đ. T đi ra khu vực vắng người gần bến xe, lấy một ít Hêrôin ra sử dụng bằng hình th c tiêmứchích vào cơ thể; số Hêrôin còn lại, T cất giấu trong người và bắt xe khách đi về TQ.

Hồi 11 giờ 40 phút cùng ngày, T đi đến khu vực tổ 8, phường P, thành phố TQ thì bị Tổ công tác Công an thành phố Tuyên Quang phát hiện, đưa về trụ sở Công an thành phố Tuyên Quang lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ tang vật.

Cùng ngày tiến hành xét nghiệm tìmứchất ma túy trong cơ thể Trần Quốc T, kết quả: (+) dương tính (Có chất ma tuý trong cơ thể Thái).

Tại Kết luận giám định số 456/GĐKTHS ngày 07/9/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Chất bột vón cục màu trắng ngà trong gói nhỏ thu của Trần Quốc T gửi giám định là Heroine (Hêrôin); trọng lượng 0,101 gam (Kh ng phẩy một kh ng một).

Từ nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 177/QĐ-KSĐT ngày 27 tháng 11 năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang đã truy tố bị cáo Trần Quốc T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, kết thúc phần xét hỏi Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Trần Quốc T, đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”

Về Điều luật áp dụng: Do mức hình phạt đối với tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 ( từ 02 đến 07 năm t ) nặng hơn so với mức hình phạt đối với tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Từ 01 năm đến 05 năm t ) nên Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015 để áp dụng Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) theo hướng có lợi cho người phạm tội.

Về mức hình phạt: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015; xử phạt bị cáo Trần Quốc T từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 09 tháng tù.

Ngoài ra, Đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử lý vật ch ng, quyền kháng cáo đối với bị cáo và buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra, bị cáo Trần Quốc T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, nội dung khai báo của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, không có tình tiết gì mới; bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định số 456/GĐKTHS ngày 07/9/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang; bị cáo nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của MNmình.

Kết thúc phần tranh luận, bị cáo Trần Quốc T nói lời sau cùng: Bị cáo nhận th c được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn c vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan Cảnh sát nđiều tra Công an thành phố Tuyên Quang, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Trần Quốc T tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được ch ng minh qua biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản xét nghiệm tìmứchất ma tuý; tang vật thu giữ; kết luận giám định, cùng các tài liệu, ch ng c khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 11 giờ 40 phút ngày 05/9/2017; tại khu vực tổ 8, phường P, thành phố TQ, tỉnh Tuyên Quang; Trần Quốc T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,101 gam (Không phẩy một kh ng một) Hêrôin mục đích để sử dụng.

Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có hành vi tàng trữ 0,101 gam heroin mục đích để sử dụng, hành vi của bị cáo thực hiện với lỗi cố ý. Vì vậy Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 ( khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015) là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Do mức hình hình phạt đối với tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 nặng hơn so với khung hình phạt đối với tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, nên Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn c Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015 để áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm  2017) khi quyết định hình phạt đối với bị cáo (theo hướng có lợi cho người phạm tội) là có cơ sở, cần chấp nhận.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về mức án mà Viện kiểm sát đề nghị: Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, gây mất trật tự trị an tại địa phương, làm ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh phòng, chống tội phạm và bài trừ tệ nạn ma tuý trên địa bàn thành phố Tuyên Quang. Bị cáo có nhân thân xấu (Ngày 19/12/1996, Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang xử phạt 3 năm tù giam về hành vi tổ chức dùng chất ma túy); Ngày 08/8/2017 của Chủ tịch UBND phường P áp dụng biện pháp giáo dục tại phường đối với Trần Quốc T theo tại quyết định số 94/QĐ-UBND. Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong một thời hạn nhất định nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo; khối lượng heroin mà bị cáo tàng trữ cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử xét mức án mà Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận xử bị cáo ở trên mức khởi điểm của khung hình phạt.

[6] Bị cáo là đối tượng nghiện chất ma tuý, hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, không có mục đích vụ lợi nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý của Trần Quốc T, Công an thành phố Tuyên Quang có Quyết định xử phạt hành chính số 349/QĐ-XPHC ngày 21/9/2017 xử phạt số tiền 750.000đ nên HĐXX không đề cập giải quyết.

Đối với người đàn ông đã bán Hêrôin cho T tại khu vực bến xe khách tỉnh Thái Nguyên do không xác định được tên, tuổi và địa chỉ nên không có căn c điều tra, xử lý, HĐXX không xem xét.

[8] Về vật ch ng: Đối với 01 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn, mặt sau phong bì có chữ ký của Trần Quốc T, chữ ký niêm phong của giám định viên và có đóng 05 dấu đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, không có giá trị sử dụng nên tiêu huỷ.

[9] Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[10] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

- Điểmức Khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, Điều 51, Điều 38; khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội;

- Điều 106, Điều 136, Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên bố: Bị cáo Trần Quốc T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý"

Xử phạt: bị cáo Trần Quốc T 01 (một) 03 (ba) tháng năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 05/9/2017.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong còn nguyên vuiẹn, mặt sau phong bì có chữ ký của Trần Quốc T, chữ ký niêm phong của giám định viên và có đóng 05 dấu đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang.

Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Tuyên uang và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Tuyên uang ngày 07/12/2017.

Về án phí: Bị cáo Trần Quốc T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn ồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2018/HSST ngày 10/01/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:04/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về