TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 04/2018/HS-PT NGÀY 19/01/2018 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 19 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 91/2017/TLPT-HS ngày 20 tháng 11 năm 2017 đối với các bị cáo Hoàng Đăng L, Hoàng Văn T do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 19/2017/HS-ST ngày 10 tháng 10 năm 2017 của Toà án nhân dân quận Đ, thành phố Hải Phòng.
- Các bị cáo có kháng cáo:
1. Hoàng Đăng L sinh ngày 11 tháng 12 năm 1988 tại Hải Phòng Nơi cư trú: Tổ B, phường H, quận Đ, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Đăng N, sinh năm 1963 và bà Bùi Thị Ô, sinh năm 1967; có vợ là Vũ Thị Lệ C, sinh năm 1993 và 02 con, lớn sinh năm 2014, nhỏ sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ từ ngày 08 tháng 4 năm 2017 đến ngày 17 tháng 4 năm 2017, áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; có mặt.
2. Hoàng Văn T, sinh ngày 06 tháng 8 năm 1986 tại Hải Phòng Nơi cư trú: Thôn 12, xã Hòa Bình, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn M, sinh năm 1961 và bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1962; có vợ là Nguyễn Thị S, sinh năm 1988 và 01 con sinh năm 2008; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 04 tháng 3 năm 2004, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 03 (ba) năm tù về tội “Phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia” (đã được xóa án tích); bị cáo ra đầu thú, bị tạm giữ ngày 02 tháng 6 năm 2017 đến ngày 05 tháng 6 năm 2017 được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; có mặt.
Ngoài ra, còn có 11 bị cáo không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trưa ngày 06 tháng 4 năm 2017, Nguyễn Quang P, Hoàng Đình Y và Nguyễn Quang U cùng nhiều người khác tham dự bữa tiệc liên hoan của tổ dân phố A1, phường H, quận Đ, thành phố Hải Phòng. Trong lúc ăn uống, P nghe thấy có người đề xuất và hẹn nhau về nhà P để đánh xóc đĩa ăn tiền, nhưng P không xác định được những ai là người đề xuất. Đến khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, do có nhu cầu đánh bạc nên sau khi ăn xong, P cùng với Y và U đi bộ về nhà của P chuẩn bị cho việc chơi xóc đĩa. Tiếp đó, những người khác gồm: Nguyễn Hữu K, Nguyễn Quang O, Nguyễn Hữu I, Hoàng Đình J, Hoàng Đăng L, Nguyễn Văn G, Nguyễn Văn V, Hoàng Văn T, Cao Quang M và Phạm Văn F lần lượt đến nhà của P để đánh bạc. P lấy bộ bát, đĩa, V lấy kéo cắt 04 quân vị hình tròn từ một lá bài tú lơ khơ để làm dụng cụ đánh bạc. Sau đó, cả nhóm ngồi đánh bạc tại phòng ngủ tầng 3 của nhà P. Quá trình đánh bạc, lúc đầu G vừa làm nhiệm vụ xóc cái vừa tham gia chơi cùng mọi người, nhưng bị thua hết tiền nên nhường cho K xóc cái. Những người tham gia chơi đặt tiền vào cửa chẵn, nghĩa là khi mở bát, 02 hoặc 04 quân vị có mặt giống nhau hoặc đặt tiền vào cửa lẻ, nghĩa là khi mở bát, 03 quân vị có mặt giống nhau. Khi không còn người đặt cửa thì người xóc cái sẽ mở bát để xem là chẵn hay lẻ. Người chơi đặt đúng cửa chẵn hoặc lẻ theo quân vị sau khi mở bát sẽ được số tiền tương ứng với số tiền đã đặt cược. Người chơi đặt không đúng cửa chẵn hoặc lẻ theo quân vị sau khi mở bát sẽ mất số tiền đã đặt cược.
Trước khi chơi xóc đĩa, L có 3.200.000 đồng, P có 3.000.000 đồng, Tuấn có 2.800.000 đồng, K có 2.500.000 đồng, J có 2.500.000 đồng, G có 2.400.000 đồng, I có 1.800.000 đồng, U có 1.200.000 đồng, O có 1.000.000 đồng, M có 700.000 đồng, Y có 450.000 đồng, V có 200.000 đồng và T có 200.000 đồng.
Một lúc sau, do nghi ngờ K gian dối nên G đã đập bộ bát, đĩa đang dùng để chơi xóc đĩa xuống nền nhà làm vỡ bát, đĩa và phát hiện ở đáy bát bị vỡ có thiết bị điện tử (còn gọi là Chíp). G, V, T và một số người khác đề nghị những người cùng tham gia đánh bạc phải bỏ hết tiền trong người ra để đếm xem nếu ai thắng thì trả lại tiền cho người thua. Mọi người đồng ý và bỏ tiền ra giường kiểm đếm, thì bị tổ công tác Công an quận Đ phối hợp Công an phường H kiểm tra, thu giữ tại chỗ 19.200.000 đồng và các dụng cụ dùng để đánh bạc gồm: 04 quân vị và một số mảnh sứ vỡ, trong đó có mảnh vỡ gắn 01 chíp điện tử.
Ngày 08 tháng 4 năm 2017, P, K, G, O, Y, U, I, J, Tuấn, M và L bị bắt theo Lệnh bắt khẩn cấp của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Đ.
Sau khi bị Cơ quan Công an phát hiện và thu giữ vật chứng, V và T đã bỏ trốn. Ngày 01 tháng 6 năm 2017, V và T đến Công an quận Đ đầu thú.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 19/2017/HSST ngày 10 tháng 10 năm 2017 của Toà án nhân dân quận Đ, thành phố Hải Phòng đã quyết định:
Áp dụng khoản 1 Điều 248; Điều 33; điểm g, p khoản 1 Điều 46; Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 1999; Nghị quyết 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016; khoản 3 Điều 7 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Hoàng Văn T 8 tháng tù. Trừ cho bị cáo 03 ngày tạm giữ, bị cáo còn phải chấp hành 07 tháng 27 ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.
Áp dụng khoản 1 Điều 248; điểm g, h, p khoản 1 khoản 2 Điều 46; Điều 53; Điều 60 Bộ luật Hình sự năm 1999, xử phạt bị cáo Hoàng Đăng L: 12 (mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 24 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Ngoài ra, Bản án còn quyết định hình phạt đối với các bị cáo đồng phạm khác; xử lý vật chứng, nghĩa vụ nộp án phí và tuyên quyền kháng cáo đối với Bản án.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 23 tháng 10 năm 2017, bị cáo Hoàng Văn T có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.
Ngày 25 tháng 10 năm 2017, bị cáo Hoàng Đăng L kháng cáo xin được hưởng hình phạt cải tạo không giam giữ. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo L đã tự nguyện rút đơn kháng cáo. Xét việc rút đơn kháng cáo của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên thể hiện như sau:
Tại phiên tòa, bị cáo Hoàng Đăng L tự nguyện rút đơn kháng cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự: Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Hoàng Đăng L.
Đối với kháng cáo của bị cáo Hoàng Văn T: Bị cáo kháng cáo hợp lệ, trong thời hạn luật định nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo. Xét nội dung đơn kháng cáo: Việc Tòa án cấp sơ thẩm xem xét đến vai trò, nhân thân, tính chất của vụ án và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xử phạt bị cáo mức án 8 tháng tù là có phần nghiêm khắc, vì: Số tiền bị cáo dùng để tham gia đánh bạc là ít nhất (200.000 đồng) nên bị cáo có vai trò thấp nhất. Mặc dù bị cáo có 01 tiền án, tuy nhiên đã được xóa án tích. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Đồng thời, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm kiến nghị đối với Tòa án cấp sơ thẩm nghiêm túc rút kinh nghiệm về việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm g khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Bị cáo Hoàng Đăng L đã tự nguyện rút toàn bộ nội dung đơn kháng cáo tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử đình chỉ việc xét xử phúc thẩm đối với bị cáo, Bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo sẽ có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Hoàng Văn T khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại giai đoạn sơ thẩm, phù hợp với lời khai của các bị cáo đồng phạm khác và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Chiều ngày 06 tháng 4 năm 2017, tại nhà của Nguyễn Quang P, bị cáo Hoàng Văn T đã cùng các bị cáo khác có hành vi đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa được thua bằng tiền. Tổng số tiền các đối tượng dùng để đánh bạc là 19.200.000 đồng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Hoàng Văn T và các bị cáo khác về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999 là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Hoàng Văn T: Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ tính chất vụ án, hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo như: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau khi phạm tội có quyết định truy nã của Cơ quan điều tra bị cáo đã ra đầu thú và xử phạt bị cáo T 8 (tám) tháng tù là có phần nghiêm khắc, bởi lẽ:
Bị cáo có vai trò thấp nhất, số tiền tham gia đánh bạc là ít nhất (200.000 đồng), mặc dù nhân thân bị cáo có 01 tiền án về tội phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia nhưng đã được xóa án tích. Mặt khác, khi phạm tội trên, bị cáo mới trên 17 tuổi. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đã thực sự ân hận về hành vi phạm tội của mình. Do đó, Quyết định của Bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo T là chưa phù hợp. Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo và sửa Bản án sơ thẩm cho đúng với tính chất, vai trò và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, cần giảm một phần hình phạt cho bị cáo.
[4] Các bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không xét.Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn nhận định các bị cáo phạm tội gây thiệt hại không lớn và áp dụng điểm g khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 đối với các bị cáo là không đúng, cấp sơ thẩm cần nghiêm túc rút kinh nghiệm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Hoàng Đăng L phạm tội “Đánh bạc”;
- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;
Sửa Bản án sơ thẩm: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng Văn T.
Áp dụng khoản 1 Điều 248; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33; Điều 20; Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 1999; Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Hoàng Văn T, xử phạt: Hoàng Văn T: 03 (ba) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án. Trừ cho bị cáo những ngày bị tạm giữ, từ ngày 02 tháng 6 năm 2017 đến ngày 05 tháng 6 năm 2017.
Về án phí: Các bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của Bản án số 19/2017/HSST ngày 10 tháng 10 năm 2017 của Toà án nhân dân quận Đ, thành phố Hải Phòng có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 04/2018/HS-PT ngày 19/01/2018 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 04/2018/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/01/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về