Bản án 04/2017/HS-ST ngày 16/01/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 04//2017/HS-ST NGÀY 16/01/2018 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Trong các ngày 14, 18 tháng 12 năm 2017 và ngày 09, 16 tháng 01 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 50/2017/HSST ngày 09/11/2017 đối với bị cáo:

NGUYỄN THỊ D

- Sinh năm 1977

-Nơi sinh: tỉnh Đồng Tháp.

-Nơi đăng ký HKTT và chổ ở hiện nay: Khóm X, thị trấn Y, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

-Quốc tịch: Việt Nam;                

Dân tộc:Kinh;               

 Tôn giáo: không.

-Nghề nghiệp: Mua bán ; trình độ học vấn:5/12

-Cha tên: Nguyễn Văn K (Chết).

-Mẹ tên: Phạm Thị N (Chết).

-Chồng tên: Nguyễn Châu M, sinh năm: 1971.

-Có 02 con, con lớn sinh năm: 1997, con nhỏ sinh năm: 1999.

-Tiền sự; tiền án: không

-Bị cáo tại ngoại.

Người bị hại: Huỳnh Thanh T, sinh năm 1992 (đã chết) Địa chỉ: khóm X, thị trấn Y, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

Đại diện hợp pháp của người bị hại: Huỳnh Văn S, sinh năm 1957; (có mặt) Địa chỉ: khóm X, thị trấn Y, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Nguyễn Châu M, sinh năm 1971 (có mặt)

Địa chỉ: khóm X, thị trấn Y, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

2/ Võ Chế L, sinh năm 1980 (vắng mặt)

Địa chỉ: ấp X, xã Y, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội D vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thị D không có giấy phép lái xe mô tô theo quy định, khoảng 03 giờ 00 phút ngày 25/5/2017, D tự ý lấy xe mô tô 02 bánh biển kiểm soát 66M2-9950 của ông Nguyễn Châu M (chồng của D mua chưa sang tên) điều khiển lưu thông trên Quốc lộ 30 đi từ hướng An Hữu đến thành phố Cao Lãnh để mua trái cây về bán.

Khi đến đoạn km 32+400 thuộc ấp An Lạc, xã An Bình, huyện Cao Lãnh thì D điều khiển xe rẽ trái qua đường để vào chợ Mỹ Trà, thành phố Cao Lãnh và xảy ra va chạm với xe mô tô biển kiểm soát 66B1-029.51 do anh Huỳnh Thanh T điều khiển lưu thông theo hướng thành phố Cao Lãnh đi An Hữu. Sau khi hai xe va chạm nhau thì xe mô tô của anh T bị mất thăng bằng tạt qua lề trái hướng đi và va chạm vào đầu xe ô tô tải (loại 750 kg) biển kiểm soát 66C-038.62 do anh Võ Chế L điều khiển lưu thông hướng An Hữu đi thành phố Cao Lãnh. Hậu quả làm 03 xe bị hư hỏng nhẹ, Nguyễn Thị D bị sây xát nhẹ, anh Huỳnh Thanh T bị thương được gia đình đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa Đồng Tháp và tiếp tục chuyển đến Bệnh viện Chợ Rẩy thành phố Hồ Chí Minh điều trị, đến 17 giờ 25 phút cùng ngày thì tử vong.

+ Tại biên bản dựng lại hiện trường hồi 08 giờ 00 phút ngày 31/5/2017, trên cơ sở hiện trường ban đầu do Cảnh sát giao thông khám nghiệm sau khi tai nạn xảy ra được thể hiện như sau: Mặt đường nơi xảy ra tai nạn trên đoạn đường thẳng, tầm nhìn không hạn chế, đường bê tông nhựa, đường khô, không trơn trượt, có hệ thống đèn đường, đường hai chiều, ở giữa mặt đường có vạch phân tuyến liên tục. Mặt đường sử dụng là 13,50 mét (phần đường bên phải hướng thành phố Cao Lãnh đi An Hữu rộng 6,50 mét, phần đường bên trái rộng 7,00 mét). Lấy lề bên phải hướng thành phố Cao Lãnh đi An hữu làm lề chuẩn để đo các dấu vết tại hiện trường xác định: Tâm vùng va chạm thứ nhất giữa xe mô tô do Nguyễn Thị D điều khiển với xe mô tô do anh Huỳnh Thanh T điều khiển vào lề phải là 3,10 mét, Tâm vùng va chạm thứ hai giữa xe ô tô tải do anh L điều khiển và anh Huỳnh Thanh T vào lề phải là 7,00 mét. Từ kết quả khám nghiệm và dựng lại hiện trường trên xác định nguyên nhân chính là do Nguyễn Thị D điều khiển xe mô tô rẽ trái không nhường đường cho xe đi ngược chiều gây tai nạn giao thông đường bộ là vi phạm vào khoản 2 Điều 15 Luật giao thông đường bộ; (Tại khoản 2 Điều 15 Luật giao thông đường bộ quy định:2. Trong khi chuyển hướng, người lái xe, người điều khiển xe máy chuyên dùng phải nhường quyền đi trước cho người đi bộ, người đi xe đạp đang đi trên phần đường dành riêng cho họ, nhường đường cho các xe đi ngược chiều và chỉ cho xe chuyển hướng khi quan sát thấy không gây trở ngại hoặc nguy hiểm cho người và phương tiện khác”). Đồng thời khi điều khiển xe mô tô D không có giấy phép lái xe theo quy định đã vi phạm vào điều cấm được quy định tại khoản 9 Điều 8 Luật giao thông đường bộ (Khoản 9 Điều 8 của Luật giao thông đường bộ quy định các hành vi bị cấm: “9. Điều khiển xe cơ giới không có giấy phép lái xe theo quy định”.

+ Tại bản giám định pháp y về tử thi số: 134/TTh-TTPY, ngày 25/5/2017 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Đồng Tháp đã khám và kết luận nguyên nhân tử vong của Huỳnh Thanh T là do ngưng tim, ngưng thở do sốc giảm thể tích.

+ Các phương tiện, đồ vật tạm giữ gồm:

- 01 xe ô tô tải (loại 750kg), hiệu THACO, màu trắng, biển kiểm soát 66C-038.62 do Võ Chế L đứng tên;

- 01 xe mô tô hiệu Exciter màu xanh trắng, biển kiểm soát 66B1-029.51 do Huỳnh Nhựt Trường đứng tên;

- 01 xe mô tô hiệu YOSHIDA màu xanh, biển kiểm soát 66M2-9950, số máy FMH-5004117, số khung 5X004117 do Lê Minh Tâm đứng tên;

- 01 thanh gỗ vuông màu xám dài 98cm, bề hoành 22cm, hai đầu thanh gỗ có đóng hai móc kim loại hình tròn màu trắng, trên thanh gỗ có một cái ghế và một khúc gỗ vuông dùng để làm giá đở chở trái cây; 02 cái giỏ xách bằng nhựa màu xanh (đã qua sử dụng); 02 sợi dây băng màu vàng xanh, ở hai đầu có gắng 04 cái móc 04 cái móc bằng kim loại màu trắng.

Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại các tài sản không liên quan đến hành vi phạm tội cho chủ sở hữu xong.

Đối với nạn nhân Huỳnh Thanh T, trong quá trình cấp cứu nạn nhân thì Bệnh viện Đa khoa Đồng Tháp đã lấy mẫu máu của T để xét nghiệm nồng độ cồn, kết quả là định lượng Ethanol (cồn) trong máu là 152,7mg/100ml máu. Đến 17 giờ ngày 25/5/2017 thì T tử vong. Quá trình khám nghiệm tử thi Cơ quan chức năng đã thu giữ mẫu máu của nạn nhân và đã giám định nồng độ cồn kết quả giám định T không phát hiện nồng độ cồn trong máu là do các quá trình chuyển hóa, tự đào thải xảy ra trong cơ thể con người nên nồng độ cồn trong máu sẽ giảm dần theo thời gian. Bên cạnh đó, trong quá trình cấp cứu và điều trị nạn nhân từ lúc 03 giờ 45 phút đến khi tử vong lúc 17 giờ cùng ngày Bệnh viện Đa khoa Đồng Tháp có truyền máu cho T 03 lần nên làm giảm nồng độ cồn trong máu. Mặc khác, xét thấy anh Huỳnh Thanh T điều khiển xe mô tô lưu thông trên phần đường bên phải hướng đi của mình và đúng làn đường quy định nên việc anh T có nồng độ cồn trong máu khi điều khiển xe không phải là nguyên nhân dẫn đến vụ tai nạn giao thông mà nguyên nhân là do Nguyễn Thị D điều khiển xe rẽ trái không nhường đường cho xe đi ngược chiều gây tai nạn giao thông làm anh T tử vong.

Trong quá trình điều tra bị cáo Nguyễn Thị D đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội D trên. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai đại diện của người người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, vật chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ.

Tại cáo trạng số 46/CT-VKS ngày 07/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lãnh đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị D về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a, Khoản 2 Điều 202 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại điện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lãnh vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, Khoản 2 Điều 202; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 47, Điều 60 của Bộ luật hình sự tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị D phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Nhưng trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nhưng cũng đã tự nguyện khắc phục hậu quả bồi thường chi phí sửa chữa phương tiện, bồi thường các khoản chi phí điều trị; chi phí mai táng; bồi thường tiền tổn thất tinh thần với tổng số tiền là 165.420.000 đồng và được đại diện hợp pháp bị hại làm đơn xin giảm nhẹ hình phạt, bản thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Do đó, với chính sách nhân đạo của Nhà nước, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị D với mức án từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 04 năm đến 05 năm.

Đối với anh Võ Chế L là người điều khiển xe ô tô tải biển kiểm soát 66C-038.62 va chạm với anh Huỳnh Thanh T dẫn đến hậu quả anh T tử vong nhưng xác định nguyên nhân dẫn đến va chạm là do trước đó D điều khiển xe rẽ trái không nhường đường cho xe đi ngược chiều và đã va chạm với xe T điều khiển làm xe T tạt qua lề trái hướng đi va chạm với xe anh L. Do đó việc xe L va chạm với anh Tòan là sự kiện bất ngờ, không có dấu hiệu tội phạm. Trong quá trình điều tra, anh L cũng tự nguyện hỗ trợ 8.000.000 đồng cho gia đình người bị hại T để lo mai táng phí. Hiện tại, anh L không yêu cầu gia đình người bị hại cũng như bị cáo hoàn trả lại số tiền này. Bên cạnh đó, đối với xe ô tô tải kiểm soát 66C-038.62 có hư hỏng nhẹ anh L đã tự sửa chữa và có đơn từ chối định giá xe, hiện nay không yêu cầu bị cáo, đại diện của người bị hại bồi thường.

Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra và thời gian diễn ra phiên tòa sơ thẩm, ông Huỳnh Văn S là đại diện theo ủy quyền của gia đình người bị hại Huỳnh Thanh T yêu cầu bị cáo và ông Nguyễn Châu M liên đới bồi thường tổng cộng 165.420.000 đồng, gồm các khoản: chi phí sửa chữa phương tiện và chi phí điều trị; chi phí mai táng; bồi thường tiền tổn thất tinh thần. Bị cáo Nguyễn Thị D và ông Nguyễn Châu M đồng ý bồi thường và đã bồi thường xong tổng cộng: 165.420.000 đồng cho đại diện gia đình người bị hại T để khắc phục hậu quả. Tại phiên tòa hôm nay, đại diện gia đình người bị hại không còn yêu cầu nào về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo và ông Nguyễn Châu M. Đề nghị Hội đồng xét xử công nhận sự thỏa thuận của bị cáo và đại diện theo ủy quyền của gia đình người bị hại.

Về vật chứng: Căn cứ Điều 41 Bộ luật Hình sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự, do gia đình bị cáo đã khắc phục xong trách nhiệm về dân sự nên đề nghị Hội đồng xét xử giao trả xe mô tô biển số: 66M2-9950 cùng giấy đăng ký xe số 089902 cho ông Nguyễn Châu M. (Hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lãnh đang tạm quản lý)

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận công khai tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, T diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, đại diện hợp pháp của người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan cùng những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội D vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo, đại diện hợp pháp của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tại phiên tòa phù hợp với chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở xác định: ngày 25/5/2017, bị cáo D tự ý lấy xe mô tô 02 bánh biển kiểm soát 66M2-9950 của ông Nguyễn Châu M (chồng của D mua chưa sang tên). Khi đến đoạn km 32+400 thuộc ấp An Lạc, xã An Bình, huyện Cao Lãnh thì bị cáo điều khiển xe rẽ trái qua đường để vào chợ Mỹ Trà, thành phố Cao Lãnh và xảy ra va chạm với xe mô tô biển kiểm soát 66B1-029.51 do anh Huỳnh Thanh T điều khiển lưu thông theo hướng thành phố Cao Lãnh đi An Hữu. Sau khi hai xe va chạm nhau thì xe mô tô của người bị hại T bị mất thăng bằng tạt qua lề trái hướng đi và va chạm vào đầu xe ô tô tải (loại 750 kg) biển kiểm soát 66C-038.62 do anh Võ Chế L điều khiển lưu thông hướng An Hữu đi thành phố Cao Lãnh. Hậu quả làm 03 xe bị hư hỏng nhẹ, Nguyễn Thị D bị sây xát nhẹ, anh Huỳnh Thanh T bị thương được gia đình đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa Đồng Tháp và tiếp tục chuyển đến Bệnh viện Chợ Rẩy thành phố Hồ Chí Minh điều trị, đến 17 giờ 25 phút cùng ngày thì tử vong.

[2] Với những căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử kết luận hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Thị D đã cấu thành tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”; tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a, Khoản 2 Điều 202 của Bộ luật hình sự quy định như sau:

1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an T giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ S tháng đến năm năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;

[3] Xét hành vi của bị cáo Nguyễn Thị D: bị cáo là người đã thành niên, có đầy đủ khả năng nhận thức hành vi của mình. Bị cáo biết rõ xe mô tô là nguồn nguy hiểm cao độ nên khi điều khiển lưu thông phải tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về an T giao thông. Nhưng bị cáo đã xem thường pháp luật, tính mạng của mình cũng như của người khác. Bị cáo điều khiển xe mô tô khi không có giấy phép lái xe đã vi phạm khoản 9 Điều 8 Luật giao thông đường bộ năm 2008. Đồng thời, bị cáo điều khiển xe rẽ trái nhưng không nhường đường cho xe đi ngược chiều, vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 15 Luật giao thông đường bộ. Hậu quả dẫn đến tai nạn giao thông làm người bị hại Huỳnh Thanh T tử vong.

[4] Nhận thấy, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự, an T giao thông đường bộ, xâm phạm đến sự hoạt động bình thường của các phương tiện giao thông đường bộ, gây thiệt hại về tính mạng của người bị hại, gây mất mát đau thương cho gia đình, tổn thất cho xã hội. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng cho bị cáo một mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Điều này giúp bị cáo có thời gian học tập, cải tạo, trở thành công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội sau này.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình, phạm tội lần đầu, không có tiền án, tiền sự, gia đình đang gặp khó khăn về kinh tế, bị cáo là lao động chính trong gia đình, bị cáo đã tự nguyện sửa chữa, khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại cho gia đình người bị hại và đại diện theo ủy quyền của gia đình người bị hại đã có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[6] Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lãnh giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, khoản 2 Điều 202; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 47, Điều 60 của Bộ luật hình sự tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị D phạm tội với mức án từ 2 năm 6 tháng đến 03  năm tù về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 04 năm đến 05 năm.

[7] Hội đồng xét xử, nhận thấy, bị cáo Nguyễn Thị D có nhân thân tốt, có địa chỉ rõ ràng cùng với các tình tiết giảm nhẹ nêu trên, nên không cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội nên giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo thường trú giám sát, giáo dục, là đủ để cho bị cáo rèn luyện, sửa chữa, trở thành người tốt, có ý thức chấp hành pháp luật. Do đó, với chính sách nhân đạo của Nhà nước, Hội đồng xét xử xét thấy khi lượng hình cần áp dụng các điểm điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 và Điều 60 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và cho bị cáo được hưởng án treo. Do đó, đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lãnh về tội danh, khung hình phạt, Hội đồng xét xử, xét thấy, là có căn cứ và phù hợp nên chấp nhận.

[8] Đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về việc áp dụng quy định Điều 47 Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử, xét thấy, đã áp dụng Điều 60 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và cho bị cáo được hưởng án treo, do đó không có cơ sở để áp dụng Điều 47 nên không chấp nhận.

[9] Đối với anh Võ Chế L là người điều khiển xe ô tô tải biển kiểm soát 66C-038.62 va chạm với anh Huỳnh Thanh T dẫn đến hậu quả anh T tử vong. Nhưng xác định nguyên nhân dẫn đến va chạm này là do trước đó D điều khiển xe rẽ trái không nhường đường cho xe đi ngược chiều và đã va chạm với xe người bị hại làm xe người bị hại tạt qua lề trái hướng đi va chạm với xe anh L. Do đó, việc xe anh L va chạm với người bị hại là sự kiện bất ngờ, không có dấu hiệu tội phạm. Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lãnh, là có căn cứ và phù hợp nên chấp nhận.

[10] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện theo ủy quyền của gia đình người bị hại yêu cầu bị cáo Nguyễn Thị D, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Châu M phải liên đới bồi thường cho gia đình của người bị hại chi phí sửa chữa phương tiện và chi phí điều trị; chi phí mai táng; bồi thường tiền tổn thất tinh thần với tổng số tiền là 165.420.000 đồng. Bị cáo Nguyễn Thị D đồng ý bồi thường và đã bồi thường xong tổng cộng: 165.420.000 đồng cho gia đình người bị hại để khắc phục hậu quả. Hội đồng xét xử, xét thấy, việc tự nguyện bồi thường của bị cáo và ông M đối với gia đình người bị hại là phù hợp nên ghi nhận. Tại phiên tòa hôm nay, đại diện của gia đình người bị hại là ông Huỳnh Văn S không còn yêu cầu về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo D và ông M; các bên đã tự nguyện thỏa thuận, giải quyết xong về dân sự nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xem xét giải quyết.

[11] Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, anh L tự nguyện hỗ trợ 8.000.000 đồng cho gia đình người bị hại để lo mai táng phí và không yêu cầu  gia đình người bị hại cũng như bị cáo D trả lại số tiền này. Bên cạnh đó, đối với xe ô tô tải kiểm soát 66C-038.62 có hư hỏng nhẹ, anh L đã tự sửa chữa và có đơn từ chối định giá xe, không yêu cầu bị cáo, đại diện gia đình của người bị hại bồi thường; bị cáo D, ông M và đại diện gia đình của người bị hại đồng ý. Hội đồng xét xử, xét thấy, sự thỏa thuận của anh L, đại diện gia đình của người bị hại, bị cáo D và ông M là phù hợp với quy định của pháp luật nên chấp nhận, không đặt vấn đề xem xét giải quyết.

[12] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 41 Bộ luật Hình sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự, xét thấy, đề nghị của Viện kiểm sát huyện Cao Lãnh là có căn cứ và phù hợp nên chấp nhận giao trả xe mô tô biển số: 66M2-9950 cùng giấy đăng ký xe số 089902 cho ông Nguyễn Châu M. (Hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lãnh đang tạm quản lý)

[13] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm a, Khoản 2 Điều 202; Điều 41; Điều 46; Điều 60 Bộ luật hình sự; Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21 và khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị D phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị D mức án 03 (ba) năm tù, cho bị cáo được hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 (năm) năm kể từ ngày tuyên án (16/01/2018).

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân thị trấn Y, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp để giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú trong thời gian thử thách thì phải thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Về trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề giải quyết.

Về xử lý vật chứng: giao trả xe mô tô biển số: 66M2-9950 cùng giấy đăng ký xe số 089902 cho ông Nguyễn Châu M. (Hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lãnh đang tạm quản lý)

Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Thị D phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, đại diện hợp pháp của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

370
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2017/HS-ST ngày 16/01/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:04/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cao Lãnh - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:16/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về