Bản án 03/2021/HSST ngày 06/01/2021 về tội tàng trữ và mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẾN TRE, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 03/2021/HSST NGÀY 06/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ VÀ MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 01 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 102/2020/TLST-HS ngày 12 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 118/2020/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 12 năm 2020, đối với các bị cáo:

- Nguyễn Anh H (T), sinh năm 1992 tại tỉnh Bến Tre; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp BA, xã NT, thành phố BT, tỉnh Bến Tre; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa: 09/12; Con ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1966 và bà Huỳnh Thị T1, sinh năm 1971; Vợ: Đặng Thị Thảo L, sinh năm 1994 (Đã ly hôn); Con: Chưa có; Tiền sự: Quyết định số 10/QĐ-XPHC ngày 22/02/2016 của Công an phường 7, thành phố Bến Tre xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, Quyết định số 08/QĐ-UBND ngày 10/01/2017 của Ủy ban nhân dân xã Nhơn Thạnh, thành phố Bến Tre áp dụng biện pháp giáo dục tại xã thời hạn 03 tháng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, Quyết định số 23/QĐ-TA ngày 04/4/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 18 tháng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; Tiền án: Không; Bị cáo hiện đang chấp hành Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh Bến Tre. (Có mặt)

- Trần Minh H1, sinh năm 1985 tại tỉnh Bến Tre; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Ấp C, xã SĐ, thành phố BT, tỉnh Bến Tre; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa: 07/12; Con ông Trần Minh C, sinh năm 1949 và bà Trần Thị L1, sinh năm 1949; Vợ, con: Chưa có; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 22/6/2020 cho đến nay. (Có mặt)

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Nguyễn Văn T2, sinh năm 1995;

Nơi cư trú: Ấp A, xã SĐ, thành phố BT, tỉnh Bến Tre. (Có mặt)

- Nguyễn Văn T3, sinh năm 1990;

Nơi cư trú: Ấp A, xã SĐ, thành phố BT, tỉnh Bến Tre. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 22 giờ 15 phút ngày 11/3/2020, lực lượng Tuần tra Công an tỉnh Bến Tre tiến hành tuần tra trên đường Đồng Văn Cống, khi đến trước nhà ở ấp BT, xã BP, thành phố BT, tỉnh Bến Tre thì phát hiện bị cáo Nguyễn Anh H và bị cáo Trần Minh H1 đang đứng trên vỉa hè cạnh xe mô tô nhãn hiệu WARM, màu xanh, biển số 71FK-3402 có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra, lực lượng Công an phát hiện bị cáo H có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy để bán lại cho người khác và bị cáo H1 có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy để sử dụng nên lập biên bản sự việc, thu giữ tang vật và bàn giao cho lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Bến Tre để xử lý theo thẩm quyền.

Vật chứng thu giữ: Thu của bị cáo H1:

- Thu trong gói thuốc lá nhãn hiệu Scott để trong túi quần phía trước bên trái của bị cáo H1 đang mặc: 01 túi nylon màu trắng, hàn kín bốn phía, bên trong có chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy (Sau khi thu giữ được niêm phong trong phong bì ký hiệu 1).

- 01 gói thuốc lá nhãn hiệu Scott.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia (đã qua sử dụng), số IMEI:

357795/04/002548/6, gắn sim số 0372459137.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu WARM, màu xanh, biển số 71FK-3402. Thu của bị cáo H:

- Thu trong ốp lưng điện thoại di động nhãn hiệu VIVO của bị cáo H đang kẹp ở lưng quần phía trước bụng: 01 túi nylon màu trắng, hàn kín ba phía, phía còn lại có rãnh khép và vạch màu đỏ, bên trong có chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy (Sau khi thu giữ được niêm phong trong phong bì ký hiệu 2).

- Thu trong túi quần phía trước bên trái của bị cáo H đang mặc: Tiền Việt Nam là 200.000 đồng.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVO có ốp lưng màu vàng, số IMEI 1: 863188039560775, số IMEI 2: 863188039560767, gắn sim số 0396962085 (bên trong ốp lưng có tờ giấy bạc Ten Dollars Singapore).

- Ngoài ra, bị cáo H còn giao nộp tiền Việt Nam là 2.570.000 đồng.

Qua làm việc, các bị cáo H và H1 khai nhận: Cách ngày bị bắt khoảng 02 tháng, thông qua mạng xã hội Facebook, bị cáo H mua của một người không rõ lai lịch một gói ma túy đá giá 1.500.000 đồng rồi đem về phân chia ra thành nhiều gói nhỏ để bán lại kiếm lời. Vào khoảng 21 giờ ngày 11/3/2020, bị cáo H đến nhà của Nguyễn Văn T2 ở ấp A, xã SĐ, thành phố BT, tỉnh Bến Tre để chơi. Tại đây, bị cáo H1 gặp T2 và anh ruột của T2 là Nguyễn Văn T3. T2 rủ bị cáo H và T3 hùn tiền để mua ma túy sử dụng thì tất cả đồng ý. Để thực hiện ý định, T3 hùn 100.000 đồng, T2 hùn 60.000 đồng và bị cáo H hùn 40.000 đồng rồi T2 cho số điện thoại của bị cáo H để bị cáo H1 liên hệ mua ma túy. Sau đó, bị cáo H1 gọi điện thoại cho bị cáo H hỏi mua 200.000 đồng ma túy đá thì bị cáo H đồng ý bán và hẹn gặp ở trước quán Như Thùy ở đường Đồng Văn Cống thuộc ấp BT, xã BP, thành phố BT, tỉnh Bến Tre. Sau đó, bị cáo H1 điều khiển xe mô tô biển số 71FK-3402 đến điểm hẹn gặp bị cáo H. Tại đây, bị cáo H bán cho bị cáo H1 một gói ma túy đá với giá 200.000 đồng. Sau khi nhận được gói ma túy, bị cáo H1 bỏ vào trong gói thuốc lá nhãn hiệu Scott rồi để vào trong túi quần phía trước bên trái của bị cáo đang mặc cất giấu. Bị cáo H cũng vừa cất số tiền bán ma túy có được vào túi quần thì bị lực lượng Công an phát hiện. Đối với 01 túi nylon màu trắng, hàn kín ba phía, phía còn lại có rãnh khép và vạch màu đỏ, bên trong có chứa tinh thể màu trắng mà lực lượng Công an thu giữ trong ốp lưng điện thoại di động nhãn hiệu VIVO là ma túy đá của bị cáo H cất giấu với mục đích để sử dụng và bán lại cho người khác nhưng chưa kịp bán thì cũng bị lực lượng Công an phát hiện thu giữ như trên.

Ngoài ra, bị cáo H còn khai nhận trước đó bị cáo đã bán trái phép chất ma túy cho T2 02 lần/02 gói ma túy đá, cụ thể:

- Lần thứ nhất: Vào khoảng 21 giờ (không rõ ngày) của đầu tháng 3/2020, tại khu vực cầu Kênh Xáng đoạn thuộc ấp A, xã SĐ, thành phố BT, tỉnh Bến Tre, bị cáo H bán cho T2 01 gói ma túy đá thu được 200.000 đồng.

- Lần thứ hai: Vào khoảng 21 giờ ngày 06/3/2020, T2 điện thoại cho bị cáo H hỏi mua 01 gói ma túy đá giá 200.000 đồng nhưng xin thiếu lại thì bị cáo H đồng ý và hẹn ra khu vực cầu Kênh Xáng sẽ bán cho T2. Thỏa thuận xong, T2 nhờ bị cáo H1 ra khu vực cầu Kênh Xáng gặp bị cáo H, bị cáo H đưa gói ma túy cho bị cáo H1 đem về đưa lại cho T2.

Theo kết luận giám định số 23/2020/GĐMT ngày 17 tháng 3 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bến Tre kết luận:

Tinh thể màu trắng đựng trong 01 túi nylon được niêm phong trong phong bì ký hiệu 1 gửi giám định là ma túy, loại: Methamphetamine, khối lượng: 0,1734 gam.

Tinh thể màu trắng đựng trong 01 túi nylon được niêm phong trong phong bì ký hiệu 2 gửi giám định là ma túy, loại: Methamphetamine, khối lượng: 1,5687 gam.

Tại Bản cáo trạng số 103/CT-VKSTPBT ngày 10 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre đã truy tố bị cáo H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự và bị cáo H1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị:

- Về tội danh và hình phạt:

Đối với bị cáo H: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; các điểm r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự: xử phạt bị cáo H từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Đối với bị cáo H1: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự: xử phạt bị cáo H1 từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

nh phạt bổ sung: Không áp dụng do các bị cáo không có thu nhập ổn định.

- Về biện pháp tư pháp: Áp dụng các Điều 47, 48 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự:

Tịch thu, tiêu hủy: 01 gói thuốc lá nhãn hiệu Scott thu được của bị cáo H1 dùng để cất giấu ma túy; 01 phong bì được niêm phong số 23/2020 có chữ ký và ghi tên Phan Trung Trực, Bùi Thị Ngọc Hân, Nguyễn Hải Đăng Khoa và hình dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bến Tre chứa chất ma túy còn lại sau giám định, do đây là vật Nhà nước cấm lưu hành; 01 sim số 0372459137 do bị cáo H1 dùng để liên hệ mua ma túy và 01 số 0396962085 do bị cáo H dùng liên hệ mua bán ma túy.

Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng, số IMEI: 357795/04/002548/6, do bị cáo H1 dùng để liên hệ mua ma túy; 01 điện thoại di động hiệu VIVO có ốp lưng màu vàng, số IMEI 1: 863188039560775, số IMEI 2: 863188039560767, do bị cáo H dùng liên hệ mua bán ma túy; số tiền 200.000 đồng trong tổng số tiền 2.770.000 đồng đã thu của bị cáo H, do bị cáo H bán ma túy cho bị cáo H1 có được vào ngày 11/3/2020; 01 tờ giấy bạc mệnh giá Ten Dollars Singapore (phía sau ốp lưng điện thoại di động hiệu VIVO).

Buộc bị cáo H giao nộp số tiền 200.000 đồng mà bị cáo có được do bán ma túy cho T2 vào tháng 3/2020 để tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

Tiếp tục tạm giữ số tiền 2.570.000 đồng còn lại đã thu của bị cáo H để đảm bảo thi hành án. Sau khi thi hành án xong, số tiền còn dư sẽ trả lại cho bị cáo H.

Ghi nhận Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Bến Tre đã giao trả cho chị Trần Thị Lệ H2 01 xe mô tô nhãn hiệu WARM, màu xanh, biển số 71FK- 3402.

Đối với Nguyễn Văn T2 và Nguyễn Văn T3 mặc dù có hành vi đưa tiền cho bị cáo H1 mua ma túy nhưng không cùng bị cáo H1 đi mua và không xác định được khối lượng ma túy của T2 và T3 hùn mua nên không đủ căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với T2 và T3.

Đối với các lần bị cáo H khai có bán ma túy cho đối tượng tên T4 và D do không rõ họ tên và địa chỉ cụ thể, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bến Tre không làm việc được nên không có căn cứ để tính thêm trách nhiệm hình sự cho bị cáo H đối với các lần bán ma túy này.

Bị cáo H khai nhận thông qua mạng xã hội Facebook, bị cáo đã mua của một người không rõ lai lịch một gói ma túy đá giá 1.500.000 đồng rồi đem về phân chia ra thành nhiều gói nhỏ để bán lại kiếm lời. Bị cáo đã 02 lần bán trái phép 02 gói ma túy đá cho T2 thu được 200.000 đồng (01 lần T2 đã trả tiền, 01 lần T2 chưa trả tiền) và 01 lần bán trái phép 01 gói ma túy cho bị cáo H1 vào ngày 11/3/2020 thì bị bắt quả tang. Bị cáo đồng ý với kết luận giám định, không khiếu nại gì đối với các hành vi và quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng và xin được giảm nhẹ hình phạt.

Bị cáo H1 khai nhận vào ngày 11/3/2020, bị cáo đến nhà của T2 để chơi. Tại đây, T2 rủ bị cáo và T3 hùn tiền để mua ma túy sử dụng thì tất cả đồng ý. Để thực hiện ý định, T3 hùn 100.000 đồng, T2 hùn 60.000 đồng và bị cáo hùn 40.000 đồng, rồi T2 cho số điện thoại của bị cáo H để bị cáo liên hệ mua ma túy. Sau đó, bị cáo gọi điện thoại cho bị cáo H hỏi mua 200.000 đồng ma túy đá thì bị cáo H đồng ý bán và hẹn gặp ở trước quán Như Thùy. Sau đó, bị cáo điều khiển xe mô tô biển số 71FK-3402 đến điểm hẹn gặp bị cáo H. Tại đây, bị cáo H bán cho bị cáo một gói ma túy đá giá 200.000 đồng. Sau khi nhận được gói ma túy, bị cáo bỏ vào trong gói thuốc lá nhãn hiệu Scott rồi để vào trong túi quần phía trước bên trái của bị cáo đang mặc cất giấu thì bị lực lượng Công an phát hiện. Bị cáo đồng ý với kết luận giám định, không khiếu nại gì đối với các hành vi và quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng và xin được giảm nhẹ hình phạt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Văn T3 trình bày: Vào ngày 11/3/2020, anh góp số tiền 100.000 đồng, T2 góp số tiền 60.000 đồng nhờ bị cáo H1 đi mua ma túy về để cùng sử dụng. Bị cáo H1 liên hệ với bị cáo H để mua ma túy, khi mua thì bị lực lượng công an kiểm tra bắt giữ.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Văn T2 trình bày: Anh góp số tiền 60.000 đồng, T3 góp số tiền 100.000 đồng và nhờ bị cáo H1 đi mua ma túy về để cùng sử dụng. Ngày 11/3/2020, bị cáo H1 mua ma túy của bị cáo H thì bị bắt giữ. Lần mua ma túy ngày 6/3/2020, anh còn thiếu bị cáo H 200.000 đồng chưa trả.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra công an thành phố Bến Tre, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Tre, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác, biên bản phạm pháp quả tang ngày 11/3/2020, cùng các tài liệu khác thu thập được trong quá trình điều tra, có đủ cơ sở xác định: Để có tiền tiêu xài và ma tuý sử dụng, vào khoảng đầu tháng 3/2020 đến ngày 06/3/2020, tại khu vực ấp A, xã SĐ, thành phố BT, tỉnh Bến Tre, bị cáo H đã có hành vi 02 lần bán trái phép 02 gói ma túy đá cho T2 thu được 200.000 đồng. Ngoài ra, vào khoảng 22 giờ 15 phút ngày 11/3/2020, tại khu vực trước nhà ở ấp BT, xã BP, thành phố BT, tỉnh Bến Tre, sau khi bị cáo H bán cho bị cáo H1 0,1734 gam ma túy, loại Methamphetamine để sử dụng và bị cáo H còn cất giấu 1,5687 gam ma túy loại Methamphetamine để bán lại cho người khác nhưng chưa kịp bán thì bị lực lượng Công an phát hiện.

[3] Bị cáo H là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận biết được các chất ma túy bị pháp luật cấm mua bán nhưng vẫn cố ý thực hiện với mục đích kiếm lời. Bị cáo H1 là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận biết việc cất giấu ma túy là bị pháp luật cấm nhưng bị cáo vẫn mua và cất giấu ma túy để sử dụng nhằm thỏa mãn cơn nghiện. Vì vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre đã truy tố bị cáo H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự và bị cáo H1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến sự quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội nơi các bị cáo cư trú và thực hiện tội phạm. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguyên nhân dẫn đến những tội phạm và tệ nạn xã hội khác, gây tâm lý bất an trong quần chúng nhân dân.

[6] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về nhân thân, bị cáo H có nhân thân xấu, đã bị xử phạt vi phạm hành chính, bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; bị cáo H1 chưa có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bị cáo H được hưởng là người phạm tội tự thú, người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và gia đình bị cáo có công với cách mạng theo quy định tại các điểm r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; bị cáo H1 được hưởng là người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, các bị cáo H và H1 không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Căn cứ vào nhân thân, tính chất, mức độ hậu quả do các bị cáo gây ra, việc cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là điều cần thiết nhằm cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và có tác dụng phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Do các bị cáo H và H1 không có thu nhập và nghề nghiệp ổn định nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng:

Tịch thu, tiêu hủy: 01 gói thuốc lá nhãn hiệu Scott thu được của bị cáo H1 dùng để cất giấu ma túy; 01 phong bì được niêm phong số 23/2020 có chữ ký và ghi tên Phan Trung Trực, Bùi Thị Ngọc Hân, Nguyễn Hải Đăng Khoa và hình dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bến Tre chứa chất ma túy còn lại sau giám định, do đây là vật Nhà nước cấm lưu hành; 01 sim số 0372459137 do bị cáo H1 dùng để liên hệ mua ma túy và 01 số 0396962085 do bị cáo H dùng liên hệ mua bán ma túy.

Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng, số IMEI: 357795/04/002548/6, do bị cáo H1 dùng để liên hệ mua ma túy; 01 điện thoại di động hiệu VIVO có ốp lưng màu vàng, số IMEI 1: 863188039560775, số IMEI 2: 863188039560767, do bị cáo H dùng liên hệ mua bán ma túy; số tiền 200.000 đồng trong tổng số tiền 2.770.000 đồng đã thu của bị cáo H, do bị cáo H bán ma túy cho bị cáo H1 có được vào ngày 11/3/2020; 01 tờ giấy bạc mệnh giá Ten Dollars Singapore (phía sau ốp lưng điện thoại di động hiệu VIVO).

Buộc bị cáo H giao nộp số tiền 200.000 đồng mà bị cáo có được do bán ma túy cho T2 vào tháng 3/2020 để tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

Tiếp tục tạm giữ số tiền 2.570.000 đồng còn lại đã thu của bị cáo H để đảm bảo thi hành án. Sau khi thi hành án xong, số tiền còn dư sẽ trả lại cho bị cáo H.

Buộc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan T2 nộp số tiền 200.000 đồng dùng để mua ma túy của bị cáo H vào ngày 06/3/2020 nhưng chưa trả để tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước Ghi nhận Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Bến Tre đã giao trả cho chị Trần Thị Lệ H2 01 xe mô tô nhãn hiệu WARM, màu xanh, biển số 71FK- 3402.

[7] Đối với Nguyễn Văn T2 và Nguyễn Văn T3 mặc dù có hành vi góp tiền nhờ bị cáo H1 mua ma túy nhưng không cùng bị cáo H1 đi mua và không xác định được khối lượng ma túy của T2 và T3 nhờ mua nên không đủ căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với T2 và T3.

Đối với các lần bị cáo H khai có bán ma túy cho đối tượng tên T4 và D, do không rõ họ tên và địa chỉ cụ thể, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bến Tre không làm việc được nên không có căn cứ để tính thêm trách nhiệm hình sự cho bị cáo H đối với các lần bán ma túy này.

[8] Lời phát biểu của kiểm sát viên tại phiên tòa về tội danh; điều luật áp dụng; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức hình phạt đề nghị áp dụng đối với các bị cáo phù hợp với quy định nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về án phí: Các bị cáo H và H1 bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Anh H (T) phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; bị cáo Trần Minh H1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; các điểm r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Anh H (T) 07 (bảy) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Trần Minh H1 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng các Điều 47, 48 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) gói thuốc lá nhãn hiệu Scott; 01 (một) phong bì được niêm phong số 23/2020 có chữ ký và ghi tên Phan Trung Trực, Bùi Thị Ngọc Hân, Nguyễn Hải Đăng Khoa và hình dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bến Tre; 01 (một) sim số 0372459137 và 01 (một) sim số 0396962085.

Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng, số IMEI: 357795/04/002548/6; 01 (một) điện thoại di động hiệu VIVO có ốp lưng màu vàng, số IMEI 1: 863188039560775, số IMEI 2: 863188039560767; số tiền 200.000 (hai trăm ngàn) đồng trong tổng số tiền 2.770.000 (hai triệu bảy trăm bảy mươi ngàn) đồng đã thu của bị cáo Nguyễn Anh H (T); 01 (một) tờ giấy bạc mệnh giá Ten Dollars Singapore (phía sau ốp lưng điện thoại di động hiệu VIVO).

Buộc bị cáo Nguyễn Anh H (T) giao nộp số tiền thu lợi bất chính là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng để tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

Tiếp tục tạm giữ số tiền 2.570.000 (hai triệu năm trăm bảy mươi ngàn) đồng còn lại đã thu của bị cáo Nguyễn Anh H (T) để đảm bảo thi hành án. Sau khi thi hành án xong, số tiền còn dư sẽ trả lại cho bị cáo Nguyễn Anh H (T).

Buộc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Văn T2 nộp số tiền 200.000 (hai trăm ngàn) đồng để tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

Ghi nhận Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Bến Tre đã giao trả cho chị Trần Thị Lệ H2 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu WARM, màu xanh, biển số 71FK-3402.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 27/11/2020, hiện Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bến Tre đang quản lý).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Hình sự; Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Án phí hình sự sơ thẩm mỗi bị cáo Nguyễn Anh H (T), Trần Minh H1 phải nộp là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.

5. Về quyền kháng cáo:

Các bị cáo, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

398
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2021/HSST ngày 06/01/2021 về tội tàng trữ và mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:03/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bến Tre - Bến Tre
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về