TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH - TP. HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 03/2021/HS-ST NGÀY 05/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 05 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 181/2020/TLST-HS ngày 20 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 180/2020/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:
Đặng Văn T, sinh năm 1964 tại Tp. Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: phường A, Quận B, Tp. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: bảo vệ; trình độ học vấn: 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Văn L (chết) và bà: Đặng Thị L (chết); có vợ: Phạm Thị B (chết) và 01 con: sinh năm 1992; nhân thân: Quyết định số 3189/QĐ-CBLĐ ngày 04/10/1984 Ủy ban nhân dân Tp. Hồ Chí Minh bắt buộc lao động tập trung 12 tháng về hành vi trộm quần áo:
tiền án:
- Bản án số 149/HS-ST ngày 28/12/1989 Tòa án nhân dân huyện Thủ Đức, Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”:
- Bản án số 20/HSST ngày 21/02/1990 Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”:
- Bản án số 158/HS-ST ngày 30/11/1991 Tòa án nhân dân Quận Ba, Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”, bị cáo kháng cáo, Bản án số 68/HSPT ngày 06/4/1992 Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh y án sơ thẩm:
- Bản án số 158/HSST ngày 25/02/1994 Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”:
- Bản án số 1185/HSST ngày 27/7/1996 Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 05 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”, bị cáo kháng cáo, Bản án số 1851/HSPT ngày 19/11/1996 Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Tp. Hồ Chí Minh y án sơ thẩm:
- Bản án số 54/HSST ngày 02/8/2001 Tòa án nhân dân Quận 2, Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 05 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”:
- Bản án số 153/2007/HSST ngày 17/7/2007 Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 05 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo kháng cáo, Bản án số 552/HSPT ngày 24/9/2007 Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh y án sơ thẩm:
- Bản án số 67/2012/HSST ngày 19/7/2012 Tòa án nhân dân Quận 2, Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo kháng cáo, QĐ đình chỉ phúc thẩm số 528/QĐ-PT ngày 07/9/2012 Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh do bị cáo rút đơn kháng cáo:
- Bản án số 176/2014/HSST ngày 25/9/2014 Tòa án nhân dân Quận 5, Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo kháng cáo, Bản án số 55/2015/HSST ngày 22/01/2015 Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh y án sơ thẩm, chấp hành xong hình phạt tù ngày 17/5/2018: ; tiền sự: không; tạm giữ, tạm giam: 24/12/2019. Có mặt.
- Bị hại:
1. Chị Nguyễn Thị Kim T1, sinh năm 1979, nơi cư trú: Phường C, quận D, Tp. Hồ Chí Minh. Vắng mặt.
2. Anh Trần Minh T2 sinh năm 1993, nơi cư trú: Phường E, Quận F, Tp. Hồ Chí Minh. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 05 giờ 00 phút ngày 24/12/2019, sau khi hết ca làm việc và cần tiền tiêu xài nên Đặng Văn T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. T thuê xe ôm từ Quận G đến ngã tư X rồi đi bộ vào đường Y thì phát hiện nhà số 64 đường Y, Phường C, quận D cửa mở, trên bàn trong nhà có một điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A20 của bà Nguyễn Thị Kim T1 không người trông coi, T dùng tay lấy điện thoại trên của bà T1 bỏ vào túi quần. Lúc này, bà T1 thấy có người trong phòng khách nên đi từ phòng bếp lên phòng khách thì gặp T. Do bà T1 chưa phát hiện T trộm tài sản nên sau khi nói chuyện vài câu thì T rời khỏi nhà 64 đường Y tẩu thoát. Sau đó, T tháo sim của điện thoại vừa chiếm đoạt được vứt bỏ (T không nhớ nơi vứt).
Khoảng 07 giờ 00 phút cùng ngày, T đi bộ đến trước nhà số 613 đường A, Phường C1, quận D thì thấy một chiếc xe ô tô biển số 51F-697.55 đang đậu tại đây. Qua kính xe T nhìn thấy ông Trần Minh T2 đang ngủ tại ghế tài xế và khu vực cần số cạnh ghế tài xế có một điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi Note 5. T đi vòng ra phía sau xe ô tô đến cửa trước bên phải, mở cửa xe, dùng tay chiếm đoạt điện thoại của ông T2 bỏ vào túi quần, đóng nhẹ cửa xe và tẩu thoát. Sau đó, T tháo sim của điện thoại vừa chiếm đoạt được vứt bỏ (T không nhớ nơi vứt).
Khoảng 09 giờ 00 phút cùng ngày, T tiếp tục đi bộ đến nhà số 766/28 đường B, Phường C2, quận D, T nhìn thấy cửa nhà mở, xung quanh không có người, T đi vào bên trong tìm tài sản, chưa kịp lấy gì thì đã bị ông Nguyễn Văn S và con trai là ông là Nguyễn Trọng P phát hiện, bắt giữ giao cho Công an Phường 5, quận Tân Bình.
Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Đặng Văn T đã thừa nhận hành vi phạm tội nêu trên.
Vật chứng thu giữ:
- 01 điện thoại di động Samsung Galaxy A20 là tài sản bị chiếm đoạt, trị giá 3.000.000 đồng, đã thu hồi trả cho bị hại bà Nguyễn Thị Kim T1. Bà T1 đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu bồi thường gì.
- 01 điện thoại di động Xiaomi Redmi Note 5 là tài sản bị chiếm đoạt, trị giá 3.300.000 đồng, đã trả cho bị hại anh Trần Minh T2. Anh T2 đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu bồi thường gì.
- 01 áo sơ mi màu xanh, ngực trái có logo Công ty TNHH bảo vệ an ninh N, 01 quần tây dài màu xanh, 01 nón màu xanh thu giữ của bị cáo:
- 01 USB màu xanh chứa dữ liệu video hình ảnh phạm tội của bị can.
Tại bản cáo trạng số 161/CT-VKS ngày 20 tháng 11 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo Đặng Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b, g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa:
- Trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình nêu tóm tắt nội dung vụ án, các nguyên nhân điều kiện phát sinh tội phạm, tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nêu các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 05 năm đến 06 năm tù.
Về vật chứng và trách nhiệm dân sự thì đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.
- Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, không có tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Đặng Văn T, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, bị hại, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.
[2] Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của người làm chứng cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận bị cáo Đặng Văn T đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động Samsung Galaxy A20 trị giá 3.000.000 đồng của bà Nguyễn Thị Kim T1 và và 01 điện thoại di động Xiaomi Redmi Note 5 trị giá 3.300.000 đồng của anh Trần Minh T2, đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”; bị cáo đã liên tục phạm tội, chưa được xóa án tích cũ mà lại tiếp tục phạm tội do cố ý, lần phạm tội này của bị cáo được xác định là “Tái phạm nguy hiểm” và đã bị 09 lần bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản”, lấy kết quả của các lần trộm cắp được để có tiền sinh sống, lần phạm tội này của bị cáo được xác định là “Có tính chất chuyên nghiệp”, là những tình tiết định khung hình phạt được quy định tại điểm điểm b, g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự Hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo là nghiêm trọng và gây nguy hiểm cho xã hội. Nó vừa trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu, quản lý tài sản hợp pháp của công dân được Nhà nước và pháp luật bảo hộ, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo đã thành niên, đủ khả năng nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác bị pháp luật ngăn cấm và bị trừng trị nhưng do động cơ tham lam nên bị cáo đã cố tình thực hiện tội phạm một cách liều lĩnh, bất chấp sự trừng trị của pháp luật. Trong vụ án này, bị cáo đã 02 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, thuộc trường hợp “Phạm tội 02 lần trở lên”, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết áp dụng hình phạt tù thật nghiêm nhằm mục đích giáo dục, cải tạo bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.
[3] Về tình tiết giảm nhẹ: Hội đồng xét xử xem xét tình tiết: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi và trả lại cho bị hại, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại bà Nguyễn Thị Kim T1 và anh Trần Minh T2 đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về vật chứng vụ án:
- 01 USB ghi nhận hình ảnh phạm tội của bị cáo là chứng cứ của vụ án và lưu giữ được trong hồ sơ vụ án nên cần lưu vào hồ sơ vụ án.
- 01 áo sơ mi màu xanh, ngực trái có logo Công ty TNHH bảo vệ an ninh N, 01 quần tây dài màu xanh, 01 nón màu xanh thu giữ của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy là những vật không có giá trị và bị cáo không có yêu cầu nhận lại nên tịch thu và tiêu hủy.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b, g khoản 2 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52 và điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:
Căn cứ Điều 106; Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự:
Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:
[1] Tuyên bố bị cáo Đặng Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt bị cáo : Đặng Văn T 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/12/2019.
[2] Lưu hồ sơ vụ án 01 USB ghi nhận hình ảnh phạm tội của bị cáo.
Tịch thu và tiêu hủy: 01 áo sơ mi màu xanh, ngực trái có logo Công ty TNHH bảo vệ an ninh Nam Á, 01 quần tây dài màu xanh, 01 nón màu xanh.
(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 45/PNK ngày 17/3/2020 của Công an quận Tân Bình).
[3] Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[4] Trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án.
Bản án 03/2021/HS-ST ngày 05/01/2021 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 03/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về