Bản án 03/2021/HS-ST ngày 05/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 03/2021/HS-ST NGÀY 05/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 01 năm 2020 tại Toà án nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 141/2020/HSST ngày 27 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 148/2020/QĐXXST-HS ngày 25/12/2020 đối với các bị cáo:

Dương Quang Đ, sinh năm 1992 tại Bắc Giang; tên gọi khác: Không; Nơi cư trú: Tổ 3, ấp 8, xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Quang Q và bà Nguyễn Thị K; vợ, con: chưa có; tiền án: 01 (Năm 2017 có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy bị Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Bình Phước xử phạt 01 năm 06 tháng tù tại bản án số 22/2017/HSST ngày 30/6/2017 chưa được xóa án tích); tiền sự: 01 (Năm 2014 có hành vi đánh nhau, Công an phường T, thị xã Đồng Xoài (nay là thành phố Đồng Xoài) ra quyết định xử phạt hành chính số tiền 750.000 đồng, (hiện chưa chấp hành).Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/8/2020 đến nay.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Ông Dương Quang Q, sinhnăm 1965 và bà Nguyễn Thị K, sinh năm 1965; Cùng trú tại Tổ 3, ấp 8, xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Dương Quang Đ là người nghiện ma túy, từ khoảng tháng 8/2018, Đ chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương, thông qua bạn bè, Đ quen biết M (không rõ nhân thân, địa chỉ) ở khu vực xã Trừ Văn Thố, huyện Bàu Bàng, Bình Dương là người bán ma túy đá. Từ đó, Đ nhiều lần mua ma túy của M để sử dụng. Cách thức mua ma túy là Đ liên lạc vào số điện thoại di động của M để hỏi mua. Tuy nhiên, M thường xuyên thay đổi số điện thoại nên những khi không liên lạc được cho M thì Đ nhờ người bạn quen ở khu vực xã Trừ Văn Thố, tên thường gọi H (không rõ nhân thân, địa chỉ) hỏi tìm số liên lạc dùm.

Khoảng 15 giờ ngày 11/8/2020, do có nhu cầu sử dụng ma túy, Đ điều khiển xe mô tô biển số 93C1 – 128.23 đi một mình đến khu vực xã Trừ Văn Thố tìm mua ma túy. Đ không có số điện thoại của M nên tìm gặp H, nhờ hỏi tìm số liên lạc mua dùm 1.000.000đ ma túy đá. H đồng ý và đòi tiền công 300.000đ. Sau khi liên lạc được M và hẹn địa điểm, Đ chở H đến điểm hẹn và gặp M. Sau khi đưa tiền, M ném 01 túi nilon dạng khóa miết chứa ma túy đá xuống đất để Đ nhặt. Mua được ma túy, Đ trả công cho H 300.000đ và trở về nhà.

Chiều ngày 12/8/2020, Đ đi một mình bằng xe mô tô và mang theo 01 túi xách da bên trong có cất giấu túi nilon chứa ma túy. Đ đến quán cà phê “Thác Mơ” khu vực đường số 7, thị trấn C và vào chòi lá gọi nước giải khát uống. Sau đó Đ lấy một ít ma túy trong túi nilon và cho vào ống thủy tinh dạng phễu do Đ mang theo để sử dụng. Sau khi sử dụng ma túy, Đ cất ống thủy tinh vào túi quần đang mặc, cất túi ma túy vào trong gói thuốc để phía trước giỏ xe mô tô và chạy xe đi lòng vòng chơi. Đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, Đ điều khiển xe mô tô đến đại lý bia, nước ngọt Thanh Hiền thuộc tổ 8, ấp 1, xã M để đổi tiền lẻ (phục vụ cho việc thu mua mủ cao su) thì bị lực lượng Công an huyện Chơn Thành kiểm tra, thu giữ, niêm phong ống thủy tinh và túi nilon chứa tinh thể màu trắng để xử lý theo quy định.

Kết quả giám định số 190/2020/GĐ - MT ngày 21 tháng 8 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước xác định:

Tinh thể màu trắng chứa trong 01 túi nilon dạng khóa miết là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 1,1569gam.

Chất màu nâu bám dính trong nỏ thủy tinh là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,0426gam.

Vật chứng:

Ngày 13/08/2020, cơquan điều tra thu giữ của Dương Quang Đ gồm:

- 01 phong bì có dấu niêm phong của phòng Kỹthuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước bên trong có chứa 0,9698g ma túy đá (mẫu vật hoàn lại sau giám định). Đang bảo quản tại kho vật chứng Công an huyện Chơn Thành.

- 01 xe mô tô hiệu Yamaha, loại Exciter, biển số 93C1 – 128.23, số máy: G3D4E418526; số khung: 0610HY399410 do Dương Quang Đ đứng tên.

- 01 máy ĐTDĐ Nokia màu đen là phương tiện mà Đ sử dụng liên lạc trong quá trình thực hiện tội phạm.

- 01 giỏ xách màu nâu và 01 ống thủy tinh dạng phễu dài 12,5cm là công cụ mà Đ sử dụng để cất giữ ma túy và sử dụng trái phép chất ma túy.

- 01 máy ĐTDĐ hiệu Samsung; 01 ĐTDĐ hiệu Iphone; 01 bóp da bên trong chứa 5.500.000đ và số tiền 31.505.000đ.

Bản cáo trạng số 132/Ctr-VKS ngày 19/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước truy tố bị cáo Dương Quang Đ về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chơn Thành sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c, khoản 1 Điều 249;điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 xử phạt bị cáo Dương Quang Đ mức án từ 15 tháng đến 20 tháng tù;

Đề nghị trả lại cho Dương Quang Đ 01 máy ĐTDĐ hiệu Samsung; 01 ĐTDĐ hiệu Iphone; 01 bóp da bên trong chứa 5.500.000đ và số tiền 31.505.000đ là tài sản của Dương Quang Đ, trả lại chiếc xe mô tô BKS xe mô tô hiệu Yamaha, loại Exciter, biển số 93C1 – 128.23 cho ông Dương Quang Q và bà Nguyễn Thị K do không liên quan đến vụ án và hủy các vật chứng đã thu giữ.

Tại phiên tòa: Các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, không tranh luận chỉ xingiảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1].Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 12/8/2020 do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Dương Quang Đ đến xã Trừ Văn Thố, huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương nhờ người tên H ( không rõ nhân thân) tìm mua ma túy của người tên M (không rõ nhân thân) 1,1995 gam ma túy đá cất giữ trong người nhằm mục đích sử dụng trái phép. Do đó, hành vi của Dương Quang Đ đủ yếu tối cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy: Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước truy tố bị cáo Dương Quang Đ theo c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước đối với chất ma tuý, là nguyên nhân dẫn đến nhiều tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác, đồng thời gây mất an ninh trật tự địa phương. Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp; các bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự; đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi của mình, nên phải chịu trách nhiệm hình sự.

[3]. Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[3.1]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Năm 2017 có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Bình Phước xử phạt 01 năm 06 tháng tù tại bản án số 22/2017/HSST ngày 30/6/2017 chưa được xóa án tích nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Dương Quang Đ là người có nhân thân xấu: Năm 2014 có hành vi đánh nhau, Công an phường T, thị xã Đồng Xoài (nay là thành phố Đồng Xoài) ra quyết định xử phạt hành chính số tiền 750.000 đồng (hiện chưa chấp hành). Tuy nhiên, bị cáo không lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân mà còn coi thường pháp luật tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội.

[3.2]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Từ phân tích trên, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, nhằm cải tạo riêng và phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sựnăm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước về tội danh, điều luật áp dụng và mức hình phạt là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[4]. Về vật chứng:các công cụ phạm tội gồm:

- 01 phong bì có dấu niêm phong của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước bên trong có chứa 0,9698g ma túy đá (mẫu vật hoàn lại sau giám định).

- 01 giỏ xách màu nâu và 01 ống thủy tinh dạng phễu dài 12,5cm là công cụ mà Đ sử dụng để cất giữ ma túy và sử dụng trái phép chất ma túy. Hiện không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 xe mô tô hiệu Yamaha, loại Exciter, biển số 93C1 – 128.23, số máy: G3D4E418526; số khung: 0610HY399410 do Dương Quang Đ đứng tên, nhưng chiếc xe này thuộc quyền sở hữu của ông Dương Quang Qvà bà Nguyễn Thị Khương, ông Quyền bà Khương không biết việc bị cáo sử dụng xe này để đi mua ma túy, nên không có lỗi, cần trả lại chiếc xe đã thu giữ cho chủ sở hữu.

- 01 máy ĐTDĐ Nokia màu đen là phương tiện mà Đ sử dụng liên lạc trong quá trình thực hiện tội phạm. Cần tịch thu sung công quỹ nhà nước.

- 01 máy ĐTDĐ hiệu Samsung; 01 ĐTDĐ hiệu Iphone; 01 bóp da bên trong chứa 5.500.000đ và số tiền 31.505.000đ là tư vật của Dương Quang Đ, không liên quan đến vụ án nên cần trả lại cho Dương Quang Đ.

[5]. Các vấn đề khác của vụ án:

Trong vụ án có đối tượng tên M, H: Theo lời khai của Dương Quang Đ thì M là người đã nhiều lần bán ma túy cho Đ, còn Hlà người giới thiệu cho Đ mua ma túy và lấy tiền Công. Tuy nhiên, quá trình điều tra xác M đến nay chưa xác định được nhân thân, địa chỉ đối với các đối tượng này. Cơ quan điều tra tiếp tục xác M điều tra, khi đủ cơ sở xử lý theo qui định.

[6]. Án phí hình sự sơ thẩmbị cáo phải chịu theo luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Dương Quang Đ tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt và điều luật áp dụng:

2.1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Dương Quang Đ 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù; thời hạn tính từ ngày 13/8/2020.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy các công cụ phạm tội gồm:

+ 01 phong bì có dấu niêm phong của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước bên trong có chứa 0,9698g ma túy đá (mẫu vật hoàn lại sau giám định).

+ 01 giỏ xách màu nâu và 01 ống thủy tinh dạng phễu dài 12,5cm là công cụ mà Đ sử dụng để cất giữ ma túy và sử dụng trái phép chất ma túy.

-Trả lại 01 xe mô tô hiệu Yamaha, loại Exciter, biển số 93C1 – 128.23, số máy: G3D4E418526; số khung: 0610HY399410 cho ông Dương Quang Qvà bà Nguyễn Thị K.

- Trả lại cho Dương Quang Đ: 01 máy ĐTDĐ hiệu Samsung; 01 ĐTDĐ hiệu Iphone; 01 bóp da bên trong chứa 5.500.000đ và số tiền 31.505.000đ.

Tịch thu bán nộp ngân sách nhà nước 01 máy ĐTDĐ Nokia màu đen đã thu giữ của Dương Quang Đ.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án Bị cáo Dương Quang Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo luật định, trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

271
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2021/HS-ST ngày 05/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:03/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chơn Thành - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về