TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
BẢN ÁN 03/2021/HS-PT NGÀY 25/01/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 25/01/2021, tại Trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Q uảng Bình xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 123/2020/TLPT-HS ngày 24 tháng 12 năm 2020 đối với các bị cáo Trần Viết L và Trần Văn V, do có kháng cáo của bị cáo Trần Văn V đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 37/2020/HS-ST ngày 13/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình.
Bị cáo Trần Văn V, sinh ngày 11/10/1996; nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay : Thôn P, xã X, huyện Q, tỉnh Quảng Bình ; nghề nghiệp : Lao động tự do ; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con bà Trần Thị L; vợ con chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt tại phiên toà phúc thẩm.
Ngoài ra trong vụ án còn có bị cáo Trần Viết L nhưng không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị;
Các bị hại:
1. Anh Phạm Ngọc T, địa chỉ: Thôn P, xã D, huyện Q, tỉnh Quảng Bình;
2. Anh Hồ Văn L, địa chỉ: B, xã T, huyện Q, tỉnh Quảng Bình.
Những người làm chứng:
1. Anh Trần Viết S, địa chỉ: Thôn P, xã X, huyện Q, tỉnh Quảng Bình;
2. Anh Trần Minh T, địa chỉ: Thôn P, xã X, huyện Q, tỉnh Quảng Bình;
3. Anh Nguyễn Quang H, địa chỉ: Thôn P, xã X, huyện Q, tỉnh Quảng Bình;
4. Anh Trương Văn P, địa chỉ: Thôn P, xã X, huyện Q, tỉnh Quảng Bình.
Xét thấy bị cáo Trần Viết L, các bị hại và những người làm chứng không liên quan đến việc xem xét kháng cáo của bị cáo Trần Văn V nên cấp phúc thẩm không triệu tập đến phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giờ 30 phút, ngày 13/6/2020, sau khi ăn nhậu tại nhà cuả mình ở Thôn P, xã X, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, Trần Viết L cùng với Trần Văn V đi ra phía ngã tư thôn P, xã X, đoạn gần Công ty Nam Trường Xuân để ngồi hóng mát. Lúc này, anh Phạm Ngọc T ở thôn Ph, xã D điều khiển xe mô tô BKS 73G1-245.12 chở theo anh Hồ Văn L đi từ trụ sở Công an xã Xuân Ninh đến thôn L, xã X. Khi thấy anh T chở anh L đi qua thì Trần Văn V gọi “ê, lại đây chơi”. Nghe tiếng V gọi, anh T quay lại chỗ L và V đang ngồi và nói “bây kêu anh à”. L liền trả lời “ dạ em kêu”. Anh T hỏi tiếp “kêu anh có việc chi à”, L trả lời “em kêu lại cho vui rứa”. L và anh T nói qua lại một lúc thì L lao vào dung tay đấm vào mặt anh T làm anh T bị rách da, chảy máu vùng lông mày trái. Thấy L đánh anh T thì V cũng lao vào dùng tay đấm anh T, làm anh T bị thương tích ở cằm trái. Bị L và V đánh, anh T bỏ chạy, L và V liền đuổi theo nhưng không đuổi kịp, liền quay lại dùng tay, chân đấm, đá vào người anh L. L còn dùng mũ bảo hiểm ném trúng vào người anh L làm anh L bị thương tích ở vùng đầu, gò má và sau lưng. Sau khi được một số người dân can ngăn, L và V bỏ đi con anh T và anh L được đưa đi sơ cứu và nhập viện Bệnh viện đa khoa huyện Quảng Ninh để điều trị.
Ngày 14/6/2020, anh Phạm Ngọc T và anh Hồ Văn L có đơn yêu cầu giám định thương tích và yêu cầu khởi tố vụ án hình sự.
Ngày 14/6/2020, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định trưng cầu giám định tỷ lệ thương tích cuả anh Hồ Văn L và anh Phạm Ngọc T.
Ngày 15/6/2020, Trung tâm giám định y khoa – pháp y tỉnh Quảng Bình kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại đối với anh Hồ Văn L là 0% (không phần trăm) và tỷ lệ thương tích gây nên hiện tại đối với anh Phạm Ngọc T là 3% (ba phần trăm).
Ngày 02/7/2020, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định trưng cầu giám định bổ sung tỷ lệ thương tích đối với thương tích của anh Hồ Văn L và Phạm Ngọc T.
Ngày 09/7/2020, Trung tâm giám định y khoa – pháp y tỉnh Quảng Bình có Kết luận giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại đối với anh Hồ Văn L là 1% và đối với anh Phạm Ngọc T là 3%.
Ngày 24/8/2020, Cơ quan điều tra đã tạm giữ từ Công an xã Xuân Ninh một mũ bảo hiểm nhãn hiệu ASIA, màu tím than, đã qua sử dụng (là tài sản của anh Hồ Văn L). Ngày 28/8/2020, Cơ quan điều tra đã trả lại một mũ bảo hiểm nhãn hiệu ASIA cho anh Hồ Văn L là chủ sở hữu.
Về trách nhiệm dân sự : Anh Phạm Ngọc T và anh Hồ Văn L không yêu cầu bồi thường dân sư, nên không xem xét giải quyết.
Bản cáo trạng số 37/CT-VKS ngay 07/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Ninh truy tố các bị cáo Trần Viết L và Trần Văn V về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 37/2020/HS-ST ngày 13/11/2020 của Toà án nhân dân huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình đã quyết định:
Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, điểm g khoản 2 Điều 260, khoản 1 Điều 268; khoản 1 Điều 269; khoản 1 Điều 298; khoản 1 Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng Hình sự, tuyên bố các bị cáo Trần Viết L và Trần Văn V phạm tội Cố ý gây thương tích.
Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 134, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Viết L 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 14/6/2020.
Căn cứ điểm i, khoản 1 Điều 134, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Văn V 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.
Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn tuyên án phí sơ thẩm và quyền kháng cáo của các bị cáo.
Trong hạn luật định, ngày 17/11/2020, bị cáo Trần Văn V có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do bị cáo là một đoàn viên thanh niên luôn tích cực trong công tac Đoàn; trong trận lũ lụt vừa qua bị cáo xung phong đi cứu hộ, phát thực phẩm cho bà con ; chưa có tiền án, tiền sự ; luôn chấp hành chính sách pháp luật của Nhà nước; bị cáo đã thực sự nhận ra khuyêt điểm, ăn năn hối cải ; bị cáo là lao động chính trong gia đinh, mẹ bị cáo không có người chăm sóc.
Tại phiên toà phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình phát biểu quan điểm giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm, vì án sơ thẩm xử phạt bị cáo Trần Văn V 06 tháng tù là phù hợp, tại phiên tòa phúc thẩm không có tình tiết gì mới.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Nội dung vụ án mà bản án sơ thẩm đã xác định hoàn toàn phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng như lời khai của bị cáo Trần Văn V tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay. Do đó, có đủ cơ sở để kết luận hành vi phạm tội mà bị cáo Trần Văn V đã thực hiện đúng như xác định của Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh và tại phần nội dung vụ án của Bản án phúc thẩm này.
[2]. So với các anh Phạm Ngọc T và Hồ Văn L thì các bị cáo Trần Viết L và Trần Văn V là những người nhỏ tuổi hơn, L và V đều sinh năm 1996, còn anh Phạm Ngọc T sinh năm 1986, anh Hồ Văn L sinh năm 1988. Tuy vậy, Long và Vương đã có hành vi vô cớ chọc ghẹo các anh Phạm Ngọc T và Hồ Văn L khi hai anh đi qua xã Xuân Ninh, nơi các bị cáo sinh sống. Khi các anh T và L đến nói chuyện phải trái, đúng sai với L và V, thì L và V không những không thấy được sai trái của mình, lại còn đánh hai anh, gây thương tích cho anh T và anh L với tỷ lệ tổn thương cơ thể lần lượt là 3% và 1%. Hành vi trên của các bị cáo thể hiện tính côn đồ, do đó tuy các bị hại chỉ bị thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể ở mức rất thấp là 1% và 3% nhưng án sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm i khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự là đúng pháp luật, đồng thời tuyên phạt mức án 06 tháng tù đối với bị cáo V là không nặng.
[3]. Bị cáo Trần Văn V tham gia vụ án với vai trò có phần ít tích cực hơn so với Trần Viết Long, cụ thể thực hiện việc đánh các anh Phạm Ngọc T và Hồ Văn L sau khi thấy Trần Viết L đánh các anh này trước và trong quá trình đuổi đánh hai anh, Trần Văn V chỉ dùng tay, chân để đấm, đá mà không dùng các loại hung khí hoặc vật dụng khác. Thương tích của các bị hại đều ở mức độ rất nhẹ. Bị cáo có nhân thân tốt, có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng quy định tại các điểm s, i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, người bị hại anh Phạm Ngọc T tại phiên tòa sơ thẩm xin giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo và bị cáo là người phải chịu thiệt thòi, lớn lên không có sự chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục của người cha, hiện phải chăm sóc mẹ đơn thân không còn sức lao động. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[4]. Do đó thấy rằng buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù là không cần thiết; có thể thỏa mãn kháng cáo của bị cáo sửa án sơ thẩm, cho bị cáo Trần Văn V được hưởng án treo nhằm thể hiện sự nhân đạo của pháp luật, mặt khác vẫn đảm bảo tính răn đe, giáo dục chung.
[5]. Các nội dung khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị cần được giữ nguyên.
[6]. Kháng cáo của bị cáo được chấp nhận, nên căn cứ điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, không buộc bị cáo Trần Văn V phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm b, khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, sửa án sơ thẩm như sau:
Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 134; các điểm i, s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, phạt bị cáo Trần Văn V 06 (sáu) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm (25/01/2021) về tội “Cố ý gây thương tích”.
Giao Ủy ban nhân dân xã Xuân Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình giám sát, giáo dục bị cáo Trần Văn V trong thời gian thử thách án treo. Trong trường hợp bị cáo Trần Văn V thay đổi nơi cư trú, Ủy ban nhân dân xã Xuân Ninh thực hiện việc thông báo theo quy định khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Căn cứ điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Trần Văn V phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm, nhưng không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án phúc thẩm (25/01/2021).
Bản án 03/2021/HS-PT ngày 25/01/2021 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 03/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quảng Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về