Bản án 03/2021/HS-PT ngày 21/01/2021 về tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng tài liệu giả cơ quan tổ chức

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 03/2021/HS-PT NGÀY 21/01/2021 VỀ TỘI LÀM GIẢ TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC; SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CƠ QUAN TỔ CHỨC

Ngày 21 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 169/2020/TLPT-HS ngày 02 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo Lê Văn P do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 114/2020/HSST ngày 15/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Hải Dương.

- Bị cáo kháng cáo:

Lê Văn P, sinh năm 1992. ĐKHKTT: Khu phố Y, phường Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa; Chỗ ở hiện nay: Thôn P, xã L, thành phố H, tỉnh Hải Dương; Nghề nghiệp: Lao động tự do;Trình độ văn hoa : 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam; Con «ng Lê Văn D và bà Nguyễn Thị K; Có vợ là Dương Thị Thu H và có 01 con; Tiền án, tiền sự: Chưa; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 14/8/2019 đến ngày 23/8/2019 được áp dụng biện pháp bảo lĩnh, hiện tại ngoại; Có mặt.

-Người bào chữa cho cho bị cáo P: Luật sư Lại Huy Q- Văn phòng luật sư Huy Phát- Đoàn luật sư thành phố Hà Nội. (Có mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Bà Lê Thị N, sinh năm 1956.

Địa chỉ: Thôn V, xã Đ, huyện Y, tỉnh Thanh Hóa.

- Anh Trịnh Minh D, sinh năm 1988.

Địa chỉ: Thôn N, xã Y, huyện Y, tỉnh Thanh Hóa.

- Anh Lê Văn T, sinh năm 1994.

Địa chỉ: Thôn D, xã Đ, huyện Y, tỉnh Thanh Hóa.

- Anh Dương Văn R, sinh năm 1976.

Địa chỉ: Thôn P, xã L, thành phố H, tỉnh Hải Dương.

- Anh Phạm Văn T1, sinh năm 1998.

Địa chỉ: Thôn Đ, xã L, thành phố H, tỉnh Hải Dương.

- Chị Phạm Thị G, sinh năm 1993.

Địa chỉ: Thôn B, xã L, huyện G, tỉnh Hải Dương.

(Đều vắng mặt) Vụ án còn có 02 bị cáo khác không kháng cáo, không bị kháng nghị là Nguyễn Văn B, Dương Thị Thu H. Bản án không bị kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản án sơ thẩm và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Năm 2012, Lê Văn P và Dương Thị Thu H đi du lịch tại nước Nga và trốn ở lại lao động đến năm 2016 thì bị trục xuất về Việt Nam. Tháng 3/2019, P, H có ý định quay lại nước Nga để lao động nhưng theo quy định pháp luật thì cả hai đều thuộc trường hợp chưa được xuất cảnh. P gọi điện thoại qua zalo cho một người đàn ông tên Q (không nhớ số điện thoại, tên zalo và chưa xác định được tên tuổi, địa chỉ) đang định cư ở Nga để nhờ làm thủ tục xuất cảnh cho P, H. Khoảng tháng 7/2019, Q gọi điện thoại qua zalo nhờ B làm thủ tục cho P, H đi xuất khẩu sang Nga. B sử dụng số điện thoại 0344.379.306 liên lạc với P qua số điện thoại 0988.301.683, bảo P muốn có hộ chiếu thì phải làm chứng minh nhân dân (viết tắt: CMND) giả; bảo P cung cấp ảnh của P, H và đi mượn CMND của người khác có cùng độ tuổi, chưa được cấp hộ chiếu lần nào rồi gửi thông tin vào zalo của B có tên “Visamaster”; việc thanh toán tiền sẽ thực hiện sau khi làm xong được hộ chiếu. P nói lại với H nội dung đã trao đổi với B. H mượn CMND, sổ hộ khẩu của chị Phạm Thị G, anh Phạm Văn T1 (là anh, chị họ của H) rồi đưa cho P. P gửi qua zalo thông tin 02 CMND của chị G, anh T1 cùng ảnh của P, H cho B. Ngày 10/7/2019, H nhờ chị Phạm Thị C (ở thôn P, xã L, thành phố H, tỉnh Hải Dương) gửi chuyển phát nhanh 02 CMND của chị G, anh T1 và 01 căn cước công dân của H qua hệ thống Viettel G, Hải Dương cho B với tên địa chỉ “Nguyễn Văn M thôn V, Đ, Y, Thanh Hóa số điện thoại 0964.179.681” (B tự lấy tên là M để tránh bị phát hiện). Sau đó, chị g có việc cần dùng đến CMND nên P, H đã lấy lại và trả CMND cho chị G.

Qua tìm hiểu trên mạng Internet, B quen một người tự giới thiệu tên là R (chưa xác định được tên tuổi, địa chỉ cụ thể) có số điện thoại 0933.678.155 có thể làm được CMND giả với giá 3.000.000đ/1 CMND. B chuyển ảnh của P, H và thông tin cần làm giả cho R qua tài khoản zalo. Ngày 01/8/2019, R gửi CMND giả mang tên Phạm Văn T1, Phạm Thị G qua bưu điện cho B với thông tin người gửi trên bưu phẩm là Nguyễn Thị Ngọc Th/Shop MP Korea, 121/6 đường 18, P. B, Q. T, TP. Hồ Chí Minh, số điện thoại 0936.223.744. B đưa cho nhân viên bưu điện chuyển trả R số tiền 6.000.000đ.

Sáng ngày 12/8/2019, B hẹn P, H gặp tại quán cà phê Napoli ở đường T, thành phố H, tỉnh Hải Dương. Tại đây, B lấy 01 hộp mực dấu rồi hướng dẫn cho P, H lăn tay trên các CMND giả rồi B mang đi ép plastic ở một cửa hàng ở thành phố H (không xác định được tên, địa chỉ cửa hàng). B quay lại đưa cho P 01 CMND giả mang tên Phạm Văn T1 có dán ảnh của P; đưa cho H 01 CMND giả mang tên Phạm Thị G có dán ảnh của H rồi bảo P, H đến Phòng quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh Hải Dương để làm hộ chiếu. Khoảng 10 giờ cùng ngày, P, H đi đến Phòng quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh Hải Dương, P cầm 01 CMND giả, sổ hộ khẩu thật có tên Phạm Văn T1 vào làm thủ tục cấp hộ chiếu; H cầm 01 CMND giả, sổ hộ khẩu thật có tên Phạm Thị G đứng ở ngoài.

Quá trình làm thủ tục, cán bộ tiếp nhận của Phòng quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh Hải Dương nghi ngờ P sử dụng CMND giả nên đã báo cáo lãnh đạo Phòng quản lý xuất nhập cảnh và Cơ quan an ninh điều tra Công an tỉnh Hải Dương. Quá trình làm việc với P, H đã thu giữ: 01 CMND số 142789409 mang tên Phạm Văn T1 sinh ngày 08/3/1998, HKTT: xã L, huyện G, tỉnh Hải Dương; 01 CMND số 142661606 mang tên Phạm Thị G, sinh ngày 22/10/1993, HKTT: xã L, huyện G, tỉnh Hải Dương; 01 sổ hộ khẩu số 270263089 mang tên chủ hộ Phạm Văn S; 01 sổ hộ khẩu số 270480800 mang tên chủ hộ Đinh Văn K; 01 điện thoại Iphone 6 màu xám, lắp sim số 0988.301.683; 01 điện thoại Samsung Glaxy A9 màu vàng, lắp sim số 0922.872.687; 01 Giấy chứng nhận kết hôn của P và H.

Ngày 13/8/2019, anh Trần Thế Đ là chủ quán cà phê Napoli giao nộp 01 đĩa DVD có chứa dữ liệu hình ảnh trích xuất từ camera của quán. Ngày 14/8/2019, cơ quan điều tra khám xét chỗ ở và thu giữ của B: 01 điện thoại Samsung có gắn sim số 0964.179.681; 01 điện thoại Viettel gắn sim số 0344.379.306; 01 CMND số 172960781 mang tên Nguyễn Văn B; 01 CMND số 174676580 mang tên Lê Văn T;

01 CMND số 142789409 mang tên Phạm Văn T1; 01 căn cước công dân số 030197001222 mang tên Dương Thị Thu H; 01 CMND số 173382110 mang tên Trịnh Minh D; 01 túi nilon bọc gói hàng màu đen, bên ngoài dán băng dính màu vàng và dán giấy trắng, dán tem mã vạch có ghi các ký tự ER764167775VN và ghi các dòng chữ Nguyễn Thị Ngọc Th/Shop MP Korea, 121/6 đường 18, P. B, Q. T, TP. Hồ Chí Minh, ĐT 0936.223.744. Người nhận: Anh M, địa chỉ: Đ, Y, thanh Hóa, SĐT: 0855.370.383; 01 P bì thư màu trắng có ghi “CM+CM Phạm Văn T1 Phạm Thị G”.

Tại Kết luận giám định số 73/KLGĐ ngày 20/8/2019, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương kết luận: 01 CMND số 142789409 mang tên Phạm Văn T1, cấp ngày 17/10/2013 và 01 CMND số 142661606 mang tên Phạm Thị G, cấp ngày 13/4/2011 là Giấy CMND giả toàn phần- phôi, hình dấu, chữ ký.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 114/2020/HSST ngày 15/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố H đã căn cứ khoản 1 và điểm c khoản 2 Điều 341, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm a khoản 1 Điều 55, Điều 58 Bộ luật hình sự; Xử phạt Lê Văn P 25 tháng tù về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” và 07 tháng tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Tổng hợp, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai tội là 32 tháng tù, được trừ 09 ngày tạm giữ (từ 14/8/2019 đến 23/8/2019), còn phải chấp hành 31 tháng 21 ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành án. Ngoài ra bản án còn tuyên hình phạt đối với các bị cáo khác và tuyên về án phí, xử lý vật chứng, quyền kháng cáo.

Ngày 25/9/2020 bị cáo Lê Văn P kháng cáo toàn bộ bản án vì cho rằng bị cáo không là người trực tiếp làm ra chứng minh nhân dân giả. Bị cáo chỉ có vai trò đồng phạm giúp sức. Tất cả các công đoạn là do bị cáo Nguyễn Văn B làm nhưng bản án lại xác định bị cáo P có vai trò đồng phạm thực hành tích cực ngang với bị cáo B và xử mức hình phạt của Thủy 27 tháng tù treo và P là 25 tháng tù là không khách quan, không công bằng.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Văn P giữ nguyên nội dung đã kháng cáo. Bị cáo P xác định do nhu cầu muốn sang Nga làm việc nên vợ chồng bị cáo P đã nghe theo sự dẫn dắt của B làm giấy chứng minh nhân dân giả để làm thủ tục xuất cảnh sang Nga. Bị cáo xác định hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, nhưng bị cáo chỉ giữ vai trò giúp sức cho bị cáo B. Bị cáo P bổ sung nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin cải tạo tại địa phương.

Người bào chữa cho bị cáo P: Luật sư Lại Huy Q trình bày: Việc đánh giá vai trò của bị cáo Lê Văn P chưa phù hợp vì bị cáo Lê Văn P và Dương Thị Thu H chỉ nghe theo sự xúi giục của B. Đề nghị áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ “người phạm tội tích cực phối hợp với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án” theo điểm t khoản 1 Điều 51 BLHS. Cơ quan điều tra có những vi phạm nghiêm trọng tố tụng khi điều tra vụ án như: Không thu thập điều tra, xác minh làm rõ hành vi của B làm giả chứng minh nhân dân cho Hoàng Văn K mà chuyển tin báo cho Cơ quan điều tra tỉnh Hưng Yên; Không xác minh triệt để người gửi bưu phẩm Nguyễn Thị Ngọc Th; Không thu giữ thư tín điện tín là vi phạm tố tụng, có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm là tội tổ chức người đi nước ngoài trái phép và bỏ lọt người phạm tội khác là R và Q. Tuy nhiên, tại bản án sơ thẩm lại nhận định các hành vi quyết định tố tụng đều hợp pháp là không chính xác. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 355, Điều 358 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để điều tra làm rõ hành vi của Hoàng Văn K và đối tượng tên R, Q để tránh bỏ lọt.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh tham gia phiên tòa sau khi phân tích các tình tiết trong vụ án, các căn cứ xem xét kháng cáo của bị cáo Lê Văn P, thấy rằng: Hành vi làm giả và sử dụng giấy tờ giả của P là một chuỗi hành vi, được quy định trong cùng một điều luật (Điều 341 Bộ luật hình sự), xâm phạm cùng một khách thể là trật tự quản lý hành chính của Nhà nước về giấy tờ, tài liệu, nên chỉ tuyên bị cáo phạm một tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” và quyết định 1 hình phạt. Do bị cáo thực hiện 2 hành vi phạm tội làm giả và sử dụng liên tiếp trong cùng một điều luật; bị cáo có nơi cư trú không ổn định, rõ ràng, nên đề nghị HĐXX không chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo, chấp nhận một phần kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo P; Xử phạt bị cáo từ 24 đến 27 tháng tù. Bị cáo không phải chịu án hình sự phúc thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Kháng cáo của bị cáo Lê Văn P trong thời hạn luật định, là kháng cáo hợp lệ nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo Lê Văn P thấy rằng:

Lời khai của bị cáo P tại phiên tòa phúc thẩm xác định các hành vi bị cáo đã thực hiện cùng bị cáo B và bị cáo H như bản án sơ thẩm đã nêu. Tuy nhiên, bị cáo cho rằng việc đánh giá vai trò và áp dụng mức hình phạt tại bản án sơ thẩm đối với bị cáo là không công bằng, nên bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo. Lời khai của bị cáo P phù hợp với lời khai của các bị cáo B, H, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Do muốn quay trở lại nước Nga để làm việc, khoảng tháng 7/2019, Lê Văn P, Dương Thị Thu H đã mượn 01 CMND mang tên Phạm Văn T1, 01 CMND mang tên Phạm Thị G và cung cấp ảnh của mình để Nguyễn Văn B làm giả 01 CMND mang tên Phạm Văn T1 dán ảnh của P, 01 CMND mang tên Phạm Thị G dán ảnh của H. Sáng ngày 12/8/2019, tại quán cà phê Napoli ở đường N, thành phố H, tỉnh Hải Dương, B hướng dẫn P, H lăn tay lên 02 CMND giả rồi đi ép plastic và quay lại đưa các CMND giả cho P, H. Khoảng 10 giờ cùng ngày, P sử dụng 01 CMND giả mang tên Phạm Văn T1 đến Phòng quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh Hải Dương để làm thủ tục xin cấp hộ chiếu thì bị phát hiện.

Xuất phát từ nhu cầu muốn làm giấy tờ để xuất cảnh đi lao động tại Liên Bang Nga, nên P đã liên lạc với người tên Q ở Nga. Khi Q nhờ B thì B liên lạc với P bảo muốn có hộ chiếu thì phải làm chứng minh nhân dân giả và phải lấy tên người khác. Bản thân P và H đã từng xuất khẩu lao động ở nước ngoài, có đủ khả năng nhận thức CMND- một loại giấy tờ tùy thân của công dân Việt Nam, trong đó có xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về đặc điểm nhận dạng, tên tuổi, quê quán … của người được cấp. Nhưng khi được B yêu cầu cung cấp các giấy tờ để làm giả thì P, H đã đồng ý, tiếp nhận ý chí và tích cực cung cấp cho B sổ hộ khẩu, 02 CMND của chị Phạm Thị G, anh Phạm Văn T1 cùng ảnh của P, H để B liên hệ qua mạng Internet làm giả cho P, H chứng minh nhân dân giả mang tên anh Phạm Văn T1 và chị Phạm Thị G. P, H còn trực tiếp lăn tay vào hai chứng minh nhân dân giả. Sau đó P còn sử dụng chứng minh nhân dân giả để làm thủ tục cấp hộ chiếu tại Phòng xuất nhập cảnh- Công an tỉnh Hải Dương thì bị phát hiện.

Do số lượng tài liệu bị làm giả là 02 CMND nên hành vi của các bị cáo P, H là đồng phạm với B về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức theo điểm c khoản 2 Điều 341 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, P có hành vi sử dụng CMND giả để làm thủ tục cấp hộ chiếu. Như vậy hành vi làm giả và sử dụng giấy tờ giả của P là một chuỗi hành vi, được quy định trong cùng một điều luật (Điều 341 Bộ luật hình sự), xâm phạm cùng một khách thể là trật tự quản lý hành chính của Nhà nước về giấy tờ, tài liệu, nên bị cáo P chỉ phải chịu 01 tội làm giả tài liệu cơ quan, tổ chức; sử dụng tài liệu giả cơ quan tổ chức và chịu một mức hình phạt. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Lê Văn P về hai tội là “tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” và “tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” thành hai tội độc lập và quyết định hai mức hình phạt là không chính xác, làm bất lợi cho bị cáo, nên cần sửa án sơ thẩm về nội dung này.

Đối với nội dung kháng cáo về xác định vai trò đồng phạm của bị cáo Lê Văn P trong vụ án thấy rằng: Tại bản án sơ thẩm đã xác định bị cáo Nguyễn Văn B là người đề xuất, giữ vai trò chính, bị cáo P, H giữ vai trò thứ 2 là chính xác, nên nội dung kháng cáo này không có căn cứ.

Đối với nội dung kháng cáo về mức hình phạt thấy rằng: Như đã phân tích ở trên, đối với bị cáo P thực hiện hai hành vi làm giả và sử dụng, nhưng chỉ xử bị cáo một tội và áp dụng một mức hình phạt. Bị cáo và Người bào chữa đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ: bị cáo P thờ cúng bác là liệt sỹ, nhưng bị cáo không cung cấp tài liệu chứng minh, tuy nhiên tại hồ sơ xác định bị cáo có bác là liệt sỹ, nên áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo tại khoản 2 Điều 51 BLHS. Do vậy, chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo sửa án sơ thẩm, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, áp dụng một mức hình phạt là có lợi cho bị cáo. Tuy nhiên, do bị cáo thực hiện 2 hành vi làm giả và sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức liên tiếp trong cùng một thời gian, xâm phạm trật tự quản lý hành chính của Nhà nước về giấy tờ, tài liệu và hoạt động quản lý xuất nhập cảnh. Hiện nay tình hình làm giấy tờ giả để xuất cảnh xảy ra nhiều, gây khó khăn cho công tác quản lý giấy tờ tài liệu của cơ quan Nhà nước và hoạt động quản lý xuất nhập cảnh của các cơ quan có thẩm quyền. Do vậy cần xử mức hình phạt nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Mặt khác, bị cáo P trình bày nơi ở của bị cáo hiện ở Thôn P, xã L, thành phố H, tỉnh Hải Dương nhưng không đăng ký tạm trú, hay thường trú, nên thấy rằng bị cáo có nơi cư trú không ổn định, rõ ràng, nên không chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo P, mà cần áp dụng hình phạt tù giam, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục riêng bị cáo và phòng ngừa chung với xã hội.

Tại phiên tòa, người bào chữa cho bị cáo P đề nghị áp dụng thêm cho bị cáo P tình tiết giảm nhẹ “người phạm tội tích cực phối hợp với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án” theo điểm t khoản 1 Điều 51 BLHS. Tuy nhiên, thấy rằng khi P bị Phòng quản lý xuất nhập cảnh phát hiện sử dụng giấy tờ giả và Cơ quan an ninh điều tra Công an tỉnh Hải Dương làm việc, kiểm tra, trích các nội dung thông tin từ điện thoại của P liên quan đến B và H thì bị cáo P mới trình bày các hành vi của các bị cáo có liên quan. Như vậy đối với nội dung này bị cáo đã được áp dụng tình tiết thành khẩn khai báo là đúng, nên không có căn cứ áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ như đề nghị của Luật sư. Đối với nội dung xác định vai trò của P trong vụ án như phân tích ở trên tại bản án sơ thẩm là đúng. Luật sư đề nghị hủy án sơ thẩm vì Cơ quan điều tra có những vi phạm nghiêm trọng tố tụng khi điều tra vụ án như: Không thu thập điều tra, xác minh làm rõ hành vi của B làm giả chứng minh nhân dân cho Hoàng Văn K mà chuyển tin báo cho Cơ quan điều tra tỉnh Hưng Yên, bỏ lọt tội phạm và người phạm tội là Q và R. Đối với các nội dung này, thấy rằng việc chuyển tin báo tố giác cho cơ quan có thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Hải Dương thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Việc xác minh, thu thập các nội dung liên quan đến đối tượng tên R, Q: B khai B thuê R làm chứng minh nhân dân giả cho H, P và theo lời khai của P liên lạc nhờ Q làm thủ tục đi Nga. Do hiện nay, chưa xác minh được nhân thân, lai lịch cụ thể của họ, nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh xử lý sau, không có việc bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. Vì vậy, không chấp nhận ý kiến của Luật sư đề nghị hủy bản án sơ thẩm theo các nội dung phân tích ở trên.

[3] Về án phí: Kháng cáo của bị cáo được chấp nhận một phần nên không phải phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị, Hội đồng xét xử không xét và đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự;

1. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Lê Văn P; Sửa bản án sơ thẩm số 114/2020/HSST ngày 15/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố H đối với bị cáo Lê Văn P.

Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 341, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Điều 38 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn P phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng tại liệu giả cơ quan tổ chức”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lê Văn P 25 (Hai mươi lăm) tháng tù được trừ được trừ 09 ngày tạm giữ (từ 14/8/2019 đến 23/8/2019), bị cáo còn phải chấp hành 24 (Hai mươi tư) tháng 21 (hai mươi mốt) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày tuyên án phúc thẩm (21/01/2021).

(HĐXX quyết định bắt và tạm giam bị cáo ngay tại phiên tòa để đảm bảo thi hành án).

3. Về án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

4.Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5.Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (Ngày 21/01/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1119
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2021/HS-PT ngày 21/01/2021 về tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng tài liệu giả cơ quan tổ chức

Số hiệu:03/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về