TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH TÂN, TỈNH VĨNH LONG
BẢN ÁN 03/2021/HNST NGÀY 12/01/2021 VỀ XIN LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 12 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Tân xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 159/2020/TLST-HN ngày 16 tháng 10 năm 2020 về việc “Xin ly hôn, nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 65/2020/QĐXX-ST ngày 04 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Kiều D, sinh năm 1985 (có mặt) Địa chỉ: Số 705/16, ấp M, xã T, huyện B, tỉnh Vĩnh Long Bị đơn: Anh Ung Tấn P, sinh năm 1986 (vắng mặt) Địa chỉ: Số 705/16, ấp M, xã T, huyện B, tỉnh Vĩnh Long
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo ñôn khởi kiện đề ngày 16/10/2020 và các lời trình bày tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án, chị Nguyễn Thị Kiều D trình bày:
Chị và anh Ung Tấn P cưới nhau vào năm 2008, hôn nhân do quen biết. Sau đó được sự đồng ý của gia đình anh chị có tổ chức lễ cưới hỏi theo phong tục tập quán ở địa phương, có đăng ký kết hôn vào tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện B, tỉnh Vĩnh Long và được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 30/8/2010.
Nữ trang cưới vợ chồng đã bán tiêu xài hết hiện nay không còn.
Sau ngày cưới vợ chồng chị về sống chung tại 705/16 ấp M, xã T, huyện B, tỉnh Vĩnh Long. Anh chị sống hạnh phúc được 12 năm, có 01 đứa con chung tên Ung Ngọc Trà M sinh ngày 06/8/2010.
Quá trình chung sống vợ chồng chị không có tạo ra tài sản chung, nợ chung, cũng không ai nợ vợ chồng chị.
Do chị và chồng thường xuyên mâu thuẫn, luôn bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc từ tháng 02/2020 cho đến nay.
Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Bình Tân giải quyết những vấn đề sau:
Về quan hệ hôn nhân: Yêu cầu cho ly hôn với anh Ung Tấn P Về con chung: chị yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu Ung Ngọc Trà M sinh ngày 06/8/2010, không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con Về quan hệ tài sản: không có tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án cho anh Ung Tấn P nhưng hết thời gian thông báo đương sự không cung cấp văn bản trình bày ý kiến. Tòa án cũng đã 02 lần tống đạt hợp lệ Thông báo về phiên hòa giải cho bị đơn, nhưng bị đơn đều vắng mặt không có lý do chính đáng. Như vậy, vụ án không tiến hành hòa giải được do bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt.
Tại bản tự khai ngày 16/10/2020 cháu Ung Ngọc Trà M có ý kiến là sau khi cha mẹ ly hôn có nguyện vọng được sống với mẹ.
Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn anh Ung Tấn P với lý do anh Ung Tấn P chỉ ăn nhậu, không lo làm ăn để lo cho gia đình. Chị khuyên chồng rất nhiều lần nhưng anh P không thay đổi. Nên chị thấy cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, chị không thể kéo dài cuộc sống hôn nhân này, chị xin ly hôn anh P Về con chung: Chị yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu Ung Ngọc Trà M sinh ngày 06/8/2010, chị không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con.
Về quan hệ tài sản: không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bị đơn vắng mặt không lý do dù đã triệu tập đến lần thứ hai.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Tại phiên tòa, bị đơn vắng mặt dù đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai không vì sự kiện bất khả kháng. Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Kiều D và anh Ung Tấn P là vợ chồng hợp pháp, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Mâu thuẫn vợ chồng phát sinh là do cuộc sống chung vợ chồng không hạnh phúc, thiếu sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Anh chị ly thân từ tháng 02/2020 cho đến nay.
Xét cuộc sống gia đình giữa chị D và anh P không hạnh phúc, anh chị không dung hòa được tình cảm vợ chồng, không hàn gắn được hạnh phúc gia đình. Chị D không còn mong muốn cùng anh P xây dựng một gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững. Với những mâu thuẫn vợ chồng như chị đã trình bày tại phiên tòa nếu kéo dài thêm cuộc sống hôn nhân sẽ càng thêm trầm trọng thêm sự ức chế hai bên, mục đích hôn nhân không đạt được và cuộc hôn nhân này không thể kéo dài.
Vì vậy, Hội đồng xét xử thống nhất chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Kiều D cho chị D được ly hôn với anh Ung Tấn P [3] Về con chung: Cháu Ung Ngọc Trà M sinh ngày 06/8/2010 hiện đang sống cùng chị D và do chị D nuôi dưỡng. Cháu M cũng có nguyện vọng được ở cùng với mẹ sau khi cha mẹ ly hôn. Xét thấy hiện cháu M có cuộc sống ổn định nên việc chị D yêu cầu được nuôi cháu M là có căn cứ nên được chấp nhận.
Chị D không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con, đây là sự tự nguyện của chị D, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[4] Về quan hệ tài sản: không tranh chấp nên hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.
[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Kiều D phải chịu theo quy định của pháp luật Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự ; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Tuyên xử:
Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho chị Nguyễn Thị Kiều D được ly hôn anh Ung Tấn P Về con chung: Giao cháu Ung Ngọc Trà M sinh ngày 06/8/2010 cho chị Nguyễn Thị Kiều D tiếp tục nuôi dưỡng, anh Ung Tấn P không phải cấp dưỡng nuôi con.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con, không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này. Trong trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Về quan hệ tài sản: không tranh chấp nên không đặt ra giải quyết Về án phí:
Buộc chị Nguyễn Thị Kiều D phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm, khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0011632 ngày 16/10/2020 của chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long, nên chị D không phải nộp thêm Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Án xử công khai có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn. Đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 03/2021/HNST ngày 12/01/2021 về xin ly hôn, nuôi con
Số hiệu: | 03/2021/HNST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bình Tân - Vĩnh Long |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 12/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về