Bản án 03/2021/HNGĐ-ST ngày 28/04/2021 về yêu cầu ly hôn đối với người bị tuyên bố mất tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG HÒA, TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 03/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/04/2021 VỀ YÊU CẦU LY HÔN ĐỐI VỚI NGƯỜI BỊ TUYÊN BỐ MẤT TÍCH

Trong ngày 28 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quảng Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số:01/2021/TLST-HNGĐ ngày 11/01/2021 về việc: “Yêu cầu ly hôn đối với người bị tuyên bố mất tích” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:09/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 15/3/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 270/2021/QĐST-HNGĐ ngày 05/4/2021 giữa:

1. Nguyên đơn: Lƣơng Văn T – sinh năm 1983 Địa chỉ: xóm L xã T huyện Q tỉnh Cao Bằng. Có mặt tại phiên toà.

2. Bị đơn: Hoàng Thị Đ – sinh năm 1984.

Nơi cư trú cuối cùng: xóm L xã T huyện Q tỉnh Cao Bằng. Vắng mặt, do đã bị tuyên bố mất tích.

NỘI DUNG VỤ ÁN

[1] Tại đơn khởi kiện ngày 10/01/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án anh Lương Văn Tu trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh kết hôn với chị Hoàng Thị Đ trên cơ sở tự do, tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Nà Phặc huyện Ngân Sơn tỉnh Bắc Kạn vào ngày 14/6/2003. Sau khi kết hôn cả hai vợ chồng về sinh sống và làm nhà ở xóm L xã T huyện L (nay là huyện Q) và có với nhau 02 con chung tên là Lương Văn C sinh ngày 22/01/2004 và Lương Văn T sinh ngày 13/12/2006. Đến ngày 14/6/2017 thì chị Hoàng Thị Đ đã bỏ nhà đi, gia đình và địa phương không biết chị Đ đi đâu, làm gì, đến nay không có tin tức gì về chị Đ. Để bảo đảm quyền và lợi ích của mình, ngày 14/11/2019 anh Lương Văn T có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Trùng Khánh “Tuyên bố chị Hoàng Thị Đ mất tích”. Quyết định số 01/2018/QĐST-VDS ngày 11/5/2018 của Tòa án nhân dân huyện Trùng Khánh đã tuyên bố chị Hoàng Thị Đ mất tích. Nay anh Lương Văn T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với người mất tích là chị Hoàng Thị Đ theo quy định của pháp luật.

- Về con chung: anh Lương Văn T và có chị Hoàng Thị Đ có 02 con chung tên là Lương Văn C sinh ngày 22/01/2004 và Lương Văn T sinh ngày 13/12/2006. Hiện nay 02 con đang ở cùng với anh T, anh T có nguyện vọng là người trực tiếp nuôi con, không yêu cầu chị Đ cấp dưỡng.

- Về tài sản chung, nợ chung: anh Lương Văn T trình bày không có tài sản chung và cam kết không có vay nợ chung.

[2] Về phía bị đơn: chị Hoàng Thị Đ đã bị Tòa án tuyên bố mất tích kể từ ngày 14/6/2017 (theo Quyết định số 01/2018/QĐST-VDS ngày 11/5/2018 Tòa án nhân dân huyện Trùng Khánh). Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện việc niêm yết công khai các văn bản tố tụng tại Ủy ban nhân dân xã Quốc Toản huyện Quảng Hòa tỉnh Cao Bằng, nhưng chị Hoàng Thị Đ vẫn vắng mặt, không có bản khai, tham gia phiên họp giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Theo biên bản xác minh ngày 23/02/2021 tại trụ sở UBND xã Quốc Toản cho thấy chị Hoàng Thị Đ đã bỏ nhà đi không có mặt tại địa phương từ khoảng năm 2017 đến nay đi đâu và làm gì không khai báo với địa phương biết. Đến ngày mở phiên tòa ngày 05/4/2021 chị Hoàng Thị Đ vẫn vắng mặt, cho nên phải hoãn phiên tòa để niêm yết công khai giấy triệu tập lần hai.

[3] Tại phiên tòa ngày 28/4/2021: Anh Lương Văn T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện chị Hoàng Thị Đ theo luật định. Còn chị Hoàng Thị Đ vẫn vắng mặt, do đó Tòa án căn cứ vào tài liệu chứng cứ do nguyên đơn cung cấp và các căn cứ của pháp luật để xem xét giải quyết.

[4] Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát có ý kiến: Quá trình tiến hành tố tụng Thẩm phán, Thư ký, Hội thẩm nhân dân thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Đương sự được bảo đảm đầy đủ quyền và nghĩa vụ đúng luật định, việc niêm yết văn bản tố tụng đúng thời hạn, không có kiến nghị gì. Về nội dung đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 53, khoản 2 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 cho anh Lương Văn T được ly hôn với chị Hoàng Thị Đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Do chị Hoàng Thị Đ có địa chỉ cư trú cuối cùng là xóm Lũng Đẩy trên xã Quốc Toản huyện Quảng Hòa tỉnh Cao Bằng cho nên Tòa án thụ lý là đúng thẩm quyền. Do chị Hoàng Thị Đ bị tuyên bố mất tích nên Tòa án không tiến hành hòa giải, chỉ mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và quyết định xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại các Điều 207, 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. [2] Về quan hệ hôn nhân: anh Lương Văn T và chị Hoàng Thị Đ có đăng ký kết hôn năm 2003 tại Ủy ban nhân dân thị trấn Nà Phặc huyện Ngân Sơn tỉnh Bắc Kạn nên quan hệ vợ chồng được pháp luật thừa nhận. Lý do anh Lương Văn T xin ly hôn là do chị Hoàng Thị Đ đã bị Tòa án tuyên bố là mất tích. Căn cứ Quyết định số 01/2018/QĐST-VDS ngày 11/5/2018 Tòa án nhân dân huyện Trùng Khánh tỉnh Cao Bằng đã tuyên bố chị Hoàng Thị Đ mất tích, quyết định này đã có hiệu lực pháp luật và đến ngày Tòa án mở phiên tòa chị Hoàng Thị Đ vẫn vắng mặt. Do vậy, căn cứ khoản 2 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cho anh Lương Văn T được ly hôn với chị Hoàng Thị Đ là có căn cứ pháp luật.

[3] Về con chung: vợ chồng có 02 con chung tên là Lương Văn C sinh ngày 22/01/2004 và Lương Văn T sinh ngày 13/12/2006. Hiện nay 02 con đang ở cùng với anh T, anh T có nguyện vọng là người trực tiếp nuôi con, không yêu cầu chị Đ cấp dưỡng là có căn cứ.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: anh Lương Văn T trình bày không có tài sản chung; cam kết không có vay nợ chung, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận, nên nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định.

[6] Nguyên đơn, bị đơn đều có quyền kháng cáo bản án theo luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 53, khoản 2 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn anh Lương Văn T. Xử cho anh Lương Văn T được ly hôn với người bị tuyên bố mất tích là chị Hoàng Thị Đ.

[2] Về con chung: Giao cháu Lương Văn C sinh ngày 22/01/2004 và cháu Lương Văn T sinh ngày 13/12/2006 cho anh Lương Văn T được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu chị Đ thực hiện cấp dưỡng.

[3] Về án phí: anh Lương Văn T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm sung công quỹ nhà nước, nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AA/2018/0001856 ngày 11/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quảng Hòa tỉnh Cao Bằng. Xác nhận anh Lương Văn T đã nộp đủ án phí.

[4] Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm có mặt anh Lương Văn T, báo cho biết được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Vắng mặt chị Hoàng Thị Đ, báo cho biết được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày niêm yết bản án theo luật định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

318
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2021/HNGĐ-ST ngày 28/04/2021 về yêu cầu ly hôn đối với người bị tuyên bố mất tích

Số hiệu:03/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quảng Hòa - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về