Bản án 03/2021/HNGĐ-ST ngày 26/01/2021 về tranh chấp ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỒNG NGỰ, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 03/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 26 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 279/2020/TLST- HNGĐ ngày 15 tháng 10 năm 2020, về tranh chấp ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 147/2020/QĐXX-ST ngày 28 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Trương Thanh T, sinh năm 1995; Địa chỉ nơi cư trú: xã VH, huyện CT, tỉnh An Giang. (Có mặt)

2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Thùy L1, sinh năm 1994; Địa chỉ nơi cư trú: xã LK, huyện HN, tỉnh Đồng Tháp. (Vắng mặt lần thứ hai)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 12/10/2020 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn anh Trương Thanh T trình bày: Anh và chị Nguyễn Thị Thùy L1 cưới nhau vào năm 2014, hôn nhân do mai mối nhưng anh chị vẫn đồng ý kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã VH, huyện CT, tỉnh An Giang. Sau khi cưới vợ chồng sống chung gia đình anh, thời gian đầu cuộc sống vợ chồng bình thường, thường xuyên cự cải nhau do không tương đồng quan điểm sống, mâu thuẫn về kinh tế gia đình và bất hòa giữa chị Thùy L1 và mẹ ruột anh, đến khoảng tháng 3/216 thì vợ chồng không còn sống chung. Trong thời gian không còn sống chung thì anh chị không có gặp nhau để hàn gắn. Nay anh yêu cầu ly hôn với chị Nguyễn Thị Thùy L1 vì đời sống vợ chồng không còn hạnh phúc. Về con chung: Có 01 con chung tên Trương Thị Trúc L2, sinh ngày 11/10/2015, hiện cháu Trúc L2 đang sống với anh, anh yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu chị Thùy L1 cấp dưỡng. Về tài sản chung và nợ chung: Anh và chị Nguyễn Thị Thùy L1 chung sống không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với chị Nguyễn Thị Thùy L1, Toà án đã triệu tập để hòa giải và xét xử theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự nhưng chị từ chối không đến Tòa án tham gia phiên hòa giải và xét xử.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hồng Ngự phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Về hôn nhân: chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn anh Trương Thanh T được ly hôn với chị Nguyễn Thị Thùy L1; về con chung: giao con chung Trương Thị Trúc L2, sinh ngày 11/10/2015 cho anh Thanh T được tiếp tục nuôi dưỡng và chị Thùy L1 không phải cấp dưỡng do anh Thanh T không có yêu cầu; về tài sản chung và nợ chung: không có và không yêu cầu giải quyết, nên Viện kiểm sát không đề cập đến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Đây là vụ kiện tranh chấp về ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 và Điều 53 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014.

[2] Bị đơn chị Nguyễn Thị Thùy L1 đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt, căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa anh Trương Thanh T và chị Nguyễn Thị Thùy L1 là hôn nhân hợp pháp, có đăng ký kết hôn và hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014. Xét yêu cầu ly hôn của anh Thanh T đối với chị Thùy L1, Hội đồng xét xử xét thấy: Theo lời trình bày của anh Thanh T tại phiên tòa hôm nay thì cuộc sống của anh và chị Thùy L1 không hạnh phúc, nguyên do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, mâu thuẫn về kinh tế gia đình và bất hòa giữa chị Thùy L1 và mẹ ruột anh, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống và vợ chồng không còn sống chung với nhau gần 05 năm nay. Từ khi không còn sống chung, anh và chị Thùy L1 không liên lạc với nhau để bàn bạc, hàn gắn tình cảm. Đối với chị Thùy L1 thì Tòa án đã triệu tập hợp lệ đến Tòa án để hòa giải, động viên cho vợ chồng đoàn tụ, nhưng chị vẫn không đến và cũng không gửi văn bản ghi ý kiến của mình để Tòa án xem xét. Từ đó, có thể nhận thấy rằng mối quan hệ vợ chồng của anh Thanh T và chị Thùy L1 hoàn toàn không còn, hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Như vậy, xét thấy yêu cầu ly hôn của anh Thanh T là có căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014: “Khi vợ hoặc chồng yêu cẩu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được” và cũng phù hợp với đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát, nên chấp nhận cho anh Trương Thanh T ly hôn với chị Nguyễn Thị Thùy L1.

[4] Về việc nuôi con: Tại phiên tòa hôm nay, anh Thanh T yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung Trương Thị Trúc L2, sinh ngày 11/10/2015, anh không yêu cầu chị Thùy L1 cấp dưỡng nuôi con, Hội đồng xét xử xét thấy, cháu Trúc L2 từ khi anh Thanh Bình và chị Thùy L1 không còn sống chung và hiện nay đều do anh Thanh T chăm sóc, nuôi dưỡng và để ổn định việc sinh hoạt của cháu, nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung của anh Thanh T, chị Thùy L1 không phải cấp dưỡng nuôi con do anh Thanh T không có yêu cầu và cũng phù hợp với đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Do anh Trương Thanh T trình bày không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết, còn chị Nguyễn Thị Thùy L1 không gửi văn bản ghi ý kiến của mình để Tòa án xem xét, nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[6] Về án phí sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQHI4 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án để buộc đương sự phải chịu tiền án phí sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015; Điều 53, khoản 1 Điều 56, các Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQHI4 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Trương Thanh T, cho ly hôn giữa anh Trương Thanh T và chị Nguyễn Thị Thùy L1.

2. Về việc nuôi con:

2.1. Anh Trương Thanh T được tiếp tục chăm sóc giáo dục, nuôi dưỡng con chung Trương Thị Trúc L2, sinh ngày 11/10/2015.

2.2. Chị Nguyễn Thị Thùy L1 không phải cấp dưỡng nuôi con.

2.3. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về án phí sơ thẩm: Anh Trương Thanh T chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí mà anh đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0001460 ngày 15/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hồng Ngự.

4. Hướng dẫn thi hành án dân sự: Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2021/HNGĐ-ST ngày 26/01/2021 về tranh chấp ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:03/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hồng Ngự - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về