Bản án 03/2020/LĐ-ST ngày 26/05/2020 về tranh chấp tiền lương, bảo hiểm xã hội

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHÚ MỸ, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 03/2020/LĐ-ST NGÀY 26/05/2020 VỀ TRANH CHẤP TIỀN LƯƠNG, BẢO HIỂM XÃ HỘI

Ngày 26 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ xét xử công khai vụ án Lao động thụ lý số 03/2020/TLST-LĐ ngày 17 tháng 01 năm 2020 về việc“Tranh chấp tiền lương, bảo hiểm xã hội” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2020/QĐXXST-LĐ ngày 21/2/2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2020/QĐS-LĐ ngày 12/3/2020 và Thông báo mở lại phiên tòa số 16/TB-TA ngày 08/5/2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1975

Địa chỉ: Tổ C, khu phố S, phường T, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (Có mặt).

Bị đơn: Công ty cổ phần thép Q Địa chỉ: Khu công nghiệp B, phường M, thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Người đại diện hợp pháp: Ông Dasagi Vijaya Bhaskara Rao – Chức vụ: Tổng giám đốc (Vắng mặt).

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bảo hiểm xã hội tỉnh B

Địa chỉ: Số M, đường B, phường P, thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Người đại diện hợp pháp: Ông Trần Duy H – Chức vụ: Giám đốc.

Ủy quyền tham gia tố tụng cho ông Ninh Văn P, sinh năm 1960 – Chức vụ: Trưởng phòng thanh tra kiểm tra (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn ông Nguyễn Văn C trình bày:

- Ông Nguyễn Văn C làm việc tại Công ty cổ phần thép Q (gọi tắt là Công ty Q) vào năm 2010, ban đầu ký kết hợp đồng có xác định thời hạn là 01 năm, đến ngày 04/6/2012 ký kết hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hàng năm có phụ lục hợp đồng điều chỉnh mức lương. Vị trí công việc là thợ vận hành máy với mức lương cơ bản là 4.600.000 đồng và các khoản phụ cấp kèm theo. Tháng 8/2016 ông chấm đứt hợp đồng lao động với Công ty Q tuy nhiên Công ty chưa thanh toán tiền lương tháng 7 và tháng 8/2016 và chốt sổ bảo hiểm xã hội cho ông.

Nay ông yêu cầu Công ty Q cụ thể như sau: Thanh toán lương tháng 7/2016 là 7.500.000 đồng và lương tháng 8/2016 là 7.500.000 đồng, tổng cộng là 15.000.000 đồng. Đóng và chốt sổ bảo hiểm cho ông từ tháng 5/2015 đến tháng 7/2016.

Ý kiến của đại diện Bảo hiểm xã hội tỉnh B như sau:

Tính từ ngày 01/5/2015 đến ngày 31/10/2016 Công ty cổ phần thép Q tiếp tục phát sinh nợ quỹ Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp là 5.753.432.474 đồng; Lãi chậm nộp: 1.516.262.883 đồng.Tổng số nợ Bảo hiểm xã hội của Công ty cổ phần thép Q từ ngày 01/5/2015 đến ngày 31/10/2016 là 7.269.695.357 đồng. Tổng số nợ Bảo hiểm xã hội của Công ty cổ phần thép Q đối với ông Nguyễn Văn C là 19.776.127 đồng, trong đó nợ quỹ Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp là 15.651.359 đồng và nợ tiền lãi phát sinh do chậm nộp là 4.124.768 đồng.

Nay đối với yêu cầu khởi kiện của ông C thì Bảo hiểm xã hội tỉnh B yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Công ty Q đóng số tiền bảo hiểm xã hội còn nợ đối với ông Cu để ông C được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật.

Đối với bị đơn là Công ty Q: Quá trình giải quyết vụ án, Công ty Q vắng mặt, không gửi ý kiến, không cung cấp tài liệu, chứng cứ đối với yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn cho Tòa án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và các văn bản pháp luật có liên quan. Nguyên đơn đã thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Riêng bị đơn đã được Tòa án triệu tập nhiều lần nhưng cố tình vắng mặt là tự từ bỏ quyền và nghĩa vụ tố tụng và phải chịu hậu quả pháp lý theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc bị đơn thanh toán các khoản tiền lương nguyên đơn và phải đóng các khoản tiền bảo hiểm xã hội còn thiếu.

Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí lao động sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, sau khi nghe ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phú Mỹ, Tòa án nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Ông Nguyễn Văn C khởi kiện yêu cầu Công ty cổ phần thép Q thanh toán tiền lương còn nợ và đóng bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật, nên tranh chấp giữa các bên được xác định là “Tranh chấp về tiền lương, bảo hiểm xã hội”. Công ty cổ phần thép Q có trụ sở chính tại Khu công nghiệp B, phường Mỹ Xuân, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và tranh chấp giữa các bên đã được hòa giải nhưng không thành nên vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ theo quy định tại khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn - Công ty Q không có yêu cầu phản tố đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hay trở ngại khách quan và đại diện bảo hiểm xã hội tỉnh B có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung:

[2.1] Xét hợp đồng lao động đã ký kết giữa ông Nguyễn Văn C và Công ty cổ phần thép Q thấy:

Về hình thức và thẩm quyền giao kết hợp đồng: Ông C giao ký kết hợp đồng lao động và phụ lục hợp đồng với Công ty Q thông qua người đại diện là ông D – Chức vụ Tổng giám đốc, hợp đồng được giao kết bằng văn bản, dựa trên sự tự nguyện của các bên nên đã tuân thủ đúng quy định tại Điều 16, Điều 17, Điều 24 Bộ luật lao động.

Công ty Q là người có nghĩa vụ chứng minh việc ông D – Chức vụ Tổng giám đốc có thẩm quyền giao kết hợp đồng lao động với người lao động theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, cho đến nay Công ty Q không cung cấp chứng cứ phản bác đến Tòa án nên Hội đồng xét xử xác định ông D – Chức vụ Tổng giám đốc sự là người có thẩm quyền giao kết hợp đồng lao động của Công ty Q theo quy định tại điểm g, khoản 3, Điều 157 Luật doanh nghiệp.

Căn cứ các Điều 15, 16, 22 và Điều 25 Bộ luật lao động, Điều 1 của các Hợp đồng lao động được ký kết giữa ông C và Công ty Q, Hội đồng xét xử xác định việc giao kết hợp đồng giữa các bên có hiệu lực pháp luật.

Về nội dung hợp đồng và quá trình thực hiện hợp đồng: Theo nội dung hợp đồng lao động đã ký kết giữa các bên thể hiện thời gian làm việc từ thứ 2 đến thứ 7 (không tính chủ nhật), tháng làm việc được tính từ ngày 21 tháng này đến ngày 20 tháng sau, việc trả lương theo hình thức chuyển khoản vào tài khoản cá nhân thông qua hệ thống ngân hàng và lương được trả vào ngày 05 mỗi tháng, ngoài mức lương cơ bản thì các khoản thưởng và phụ cấp khác sẽ được tính toán dựa theo ngày công thực tế và tình hình công việc cụ thể hàng tháng được giao. Quá trình thực hiện hợp đồng ông C đã thực hiện đầy đủ nội dung và yêu cầu công việc theo hợp đồng lao động đã ký kết. Đến tháng 8/2016 giữa ông C và Công ty Q chấm dứt hợp đồng lao động, ông C xác định khi nghỉ việc Công ty Q chưa thanh toán cho ông C tiền lương tháng 7 và 8/2016.

[2.2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì thấy:

Do Công ty Q không tham gia tố tụng, không cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình nên Hội đồng xét xử căn cứ vào các tài liệu chứng cứ thu thập được trong quá trình giải quyết vụ án đối chiếu với các tài liệu chứng cứ do nguyên đơn cung cấp để xác định thời gian Công ty Q nợ lương và số tiền nợ cụ thể đối với ông C.

Tại các bản sao kê tài khoản cá nhân tại Ngân hàng của nguyên đơn cung cấp xác định Công ty Q đã thanh toán cho ông C 40% lương tháng 7/2016 vào ngày 05/8/2016. Quá trình tố tụng tại Tòa án ông C không cung cấp được quyết định thôi việc và các phiếu lương tháng 7, tháng 8/2016 để xác định thời gian nghỉ việc cụ thể của ông C. Đối chiếu với Danh sách nợ bảo hiểm xã hội của Công ty Q do Bảo hiểm xã hội tỉnh B cung cấp thì xác định ông C được Công ty báo đóng các khoản bảo hiểm xã hội đến cuối tháng 7/2016. Như vậy có căn cứ để xác định ông C chỉ làm việc tại Công ty Q đến cuối tháng 7/2016 và Công ty Q đã thanh toán cho ông C 40% lương tháng 7/2016.

Do đó việc ông C khởi kiện yêu cầu Công ty Q thanh toán toàn bộ lương tháng 7 và tháng 8/2016 là không có căn cứ để chấp nhận toàn bộ yêu cầu. Cho nên chỉ có thể buộc Công ty Q phải thanh toán cho ông C 60% tiền lương của tháng 7/2016 còn lại cụ thể là 3.170.400 đồng.

[2.3] Xét yêu cầu về đóng và chốt sổ bảo hiểm xã hội của nguyên đơn thì thấy:

Theo các chứng cứ của Bảo hiểm xã hội tỉnh B cung cấp và xác nhận của người lao động thì hiện nay Công ty Q còn nợ quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp của người lao động từ tháng 01/2014 đến ngày 31/10/2016. Tuy nhiên ngày 29/5/2015 Tòa án nhân dân huyện Tân Thành (nay là Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ) đã ban hành quyết định số 18/2015/QĐST – LĐ với nội dung Công ty cổ phần thép Q có nghĩa vụ nộp cho Bảo hiểm xã hội tỉnh B số tiền 8.150.610.189 đồng, được chốt đến ngày 30/4/2015 trong đó ông Nguyễn Văn C. Hiện nay Công ty cổ phần thép Q tiếp tục phát sinh nợ quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp tính từ ngày 01/5/2015 đến tháng 7/2016 của ông C với tổng số tiền là 19.776.127 đồng, trong đó nợ quỹ Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp là 15.651.359 đồng và nợ tiền lãi phát sinh do chậm nộp là 4.124.768 đồng.

Căn cứ theo quy định của pháp luật và hợp đồng lao động đã ký kết giữa người lao động và người sử dụng lao động thì hàng tháng Công ty thép Q đã thu quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp của ông C nhưng không nộp cho Bảo hiểm xã hội tỉnh B. Như vậy Công ty thép Q đã vi phạm Điều 17, Điều 18, Điều 21 của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014.

Để bảo đảm quyền lợi hợp pháp ông C cũng như quyền lợi của Cơ quan bảo hiểm xã hội tỉnh B nên chấp nhận toàn bộ yêu cầu của ông C đối với Công ty cổ phần thép Q về việc buộc Công ty cổ phần thép Q phải đóng và chốt sổ bảo hiểm xã hội cho ông C từ ngày 01/5/2015 đến tháng 7/2016 theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội.

[3] Về án phí: Công ty thép Q phải nộp án phí lao động sơ thẩm về tranh chấp tiền lương với số tiền là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) và án phí lao động sơ thẩm không có giá ngạch đối với yêu cầu về đóng và chốt sổ bảo hiểm xã hội của nguyên đơn là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng).

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 227, 228, khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 36, Điều 37, Điều 90 Bộ luật lao động; Điều 18, Điều 21 của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014; Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/10/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn C về “Tranh chấp tiền lương, bảo hiểm xã hội” đối với Công ty cổ phần thép Q.

Buộc Công ty cổ phần thép Q thanh toán cho ông Nguyễn Văn C 60% tiền lương tháng 7/2016 là 3.170.400đ (Ba triệu một trăm bảy mươi ngàn bốn trăm đồng).

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không thanh toán số tiền nêu trên thi hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu thêm lãi suất của số tiền chưa thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

2. Buộc Công ty cổ phần thép Q phải đóng các khoản bảo hiểm xã hội gồm (Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp) vào quỹ Bảo hiểm xã hội của Bảo hiểm xã hội tỉnh B cho ông Nguyễn Văn C từ ngày 01/5/2015 đến tháng 7/2016.

3. Mức đóng và số tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất mà Công ty cổ phần thép Q phải đóng vào Quỹ bảo hiểm được áp dụng và tính theo quy định của pháp luật về Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.

4. Về án phí lao động sơ thẩm: Buộc Công ty cổ phần thép Q phải nộp 600.000 đồng (Sáu trăm ngàn đồng).

5. Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, các đương sự có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm. (Riêng đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai).

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,7a,7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

599
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2020/LĐ-ST ngày 26/05/2020 về tranh chấp tiền lương, bảo hiểm xã hội

Số hiệu:03/2020/LĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phú Mỹ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Lao động
Ngày ban hành: 26/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về