Bản án 03/2020/HS-ST ngày 20/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 03/2020/HS-ST NGÀY 20/10/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 10 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 04/2020/HSST ngày 07 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2020/QĐXXST - HS ngày 07 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Cà Văn N - Sinh năm 1972; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản M, xã T, huyện S, tỉnh Sơn La; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 01/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Chức vụ đoàn thể, đảng phái: Không; Con ông Cà Văn N1 và bà Cà Thị N2 (đã chết); Có vợ là Lường Thị O và có 02 con chung (con lớn nhất sinh năm 1996, con nhỏ nhất sinh năm 1998); Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Năm 2010 cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm giáo dục lao động huyện Sông mã với thời hạn 24 tháng.

Bị cáo bị tạm giữ, giam từ ngày 04/7/2020 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 23 giờ 00 phút, ngày 03/7/2020 tổ công tác Công an xã T, huyện S phối hợp với công an huyện S làm nhiệm vụ đến lán nương của Cà Văn N mời N đến Trụ sở UBND xã T để thử test kiểm tra ma túy, tại lán nương N đã tự giác giao nộp 01 gói nilon màu hồng bên trong có chứa 02 viên nén màu hồng, N khai là hồng phiến. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng.

Ngày 04/7/2020 tại Công an huyện S tiến hành mở niêm phong, xác định khối lượng vật chứng, trích mẫu giám định, kết quả: 02 viên nén màu hồng thu giữ của N có khối lượng 0,18 gam, đã sử dụng hết để làm mẫu gửi giám định, ký hiệu N.

Tại bản kết luận giám định số 1170 ngày 10/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu N là ma túy; Loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,18 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,18 gam; Loại Methamphetamine”.

Quá trình điều tra bị cáo Cà Văn N khai nhận: Khoảng 15 giờ ngày 03/7/2020 N mang theo số tiền 70.000VNĐ và đi bộ từ nhà đến bản P, xã D, huyện G, tỉnh Sơn La để mua ma túy về sử dụng. Đến bản P thì N gặp một người đàn ông dân tộc mông không quen biết ở ngoài đường và N hỏi mua được của người đàn ông này 03 viên hồng phiến với giá 70.000VNĐ. Mua được ma túy N lấy 01 viên ra sử dụng bằng hình thức đốt hít qua đường hô hấp, sau đó N đi bộ về lán nương và cất giấu 02 viên hồng phiến còn lại vào túi quần và treo lên vách lán. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày thì có tổ công tác đến làm việc, N đã tự nguyện giao nộp ra 02 viên hồng phiến đang cất giấu cho tổ công tác.

Do có hành vi nêu trên tại bản Cáo trạng số 123/CT-VKSSM ngày 01 tháng 10 năm 2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Sông Mã để xét xử Cà Văn N về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Ti phiên toà kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm r, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS xử phạt Cà Văn N từ 14 – 20 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung. Xử lý vật chứng: tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau khi trừ đi mẫu gửi giám định cùng phong bì niêm phong và mảnh nilon. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo và tuyên quyền kháng cáo.

Ti phiên tòa khi được nói lời sau cùng bị cáo thừa nhận hành vi của mình đã vi phạm pháp luật, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về các chứng cứ xác định tội danh: Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau - Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập vào hồi 23 giờ 00 phút, ngày 03/7/2020 đối với Cà Văn N có hành vi cất giấu 02 viên nén màu hồng, N khai nhận là hồng phiến.

- Vật chứng bị thu giữ là 02 viên nén màu hồng; Kết luận giám định số 1170 ngày 10/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận là ma túy: “…khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,18 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,18 gam; Loại Methamphetamine”.

- Lời khai bị cáo về việc vì đã sử dụng ma tuý từ năm 2010 nên ngày 03/7/2020 có lên bản P, xã D, huyện G mua được 03 viên hồng phiến về mục đích để sử dụng, sau khi mua được đã sử dụng hết 01 viên, còn lại 02 viên cất giấu để sử dụng dần, đến khoảng 23 giờ cùng ngày sau khi được tổ công tác vận động đã tự nguyện giao nộp.

- Lời khai nhận tội của bị cáo về thời gian địa điểm, diễn biến của hành vi phạm tội tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo không có thay đổi, bổ sung gì về lời khai làm thay đổi nội dung vụ án. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc đã thực hiện.

Như vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS là đúng quy định của pháp luật.

Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 03/7/2020 bị cáo đã có hành vi tàng trữ 0,18 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ.

Hành vi bị cáo thực hiện đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, có mức hình phạt từ “01 năm đến 05 năm tù”.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, bị cáo nhận thức được việc tàng trữ chất ma tuý là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện tội phạm, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an ở địa phương, là mầm mống phát sinh các loại tội phạm khác, gây bức xúc trong xã hội.

[4] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Tại phiên toà và tại cơ quan điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau khi được tổ công tác làm nhiệm vụ vận động đã tự thú và giao nộp số ma túy đã cất giấu nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại các điểm s, r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhưng đã bị áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc một lần nhưng bị cáo vẫn không từ bỏ được ma túy và vẫn thực hiện hành vi phạm tội mới.

Vì vậy, cần có một mức án tương xứng với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội trên cơ sở cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm trách nhiệm hình sự để đưa ra một mức án phù hợp nhất, nhằm giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và cũng đảm bảo biện pháp răn đe, phòng ngừa chung, góp phần thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tệ nạn ma tuý tại địa phương.

[5] Về hình phạt bổ sung: gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn không có tài sản gì có giá trị, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về các vấn đề khác có liên quan trong vụ án:

Về người đàn ông dân tộc Mông bị cáo khai là người đã bán ma túy cho bị cáo, bị cáo khai chỉ gặp ngoài đường, không biết rõ tên, địa chỉ cụ thể nên CQCSĐT không mở rộng điều tra vụ án là đúng quy định của pháp luật.

[7] Về vật chứng vụ án: Đối với phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, cùng mảnh nilon và số ma túy còn lại sau khi trừ đi mẫu gửi giám định là những vật không có giá trị sử dụng và vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí: Gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo nên được miễn án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

- Tuyên bố bị cáo Cà Văn N phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Xử phạt bị cáo Cà Văn N 15 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/7/2020.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự;

Các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 mảnh nilon màu hồng và 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở, được đựng trong 01 phong bì đã niêm phong, trên giấy niêm phong có mã số 027570.

+ 0,14 gam Methamphetamine được đựng trong 01 phong bì thư của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, đã được niêm phong, trên giấy dán niêm phong có mã số 000379.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/10/2020 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Mã.

3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 20/10/2020)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

251
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2020/HS-ST ngày 20/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:03/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:20/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về